Có một chuyện dân gian ở làng tôi thế này, một đám đông trẻ con đang
chơi cạnh sân nhà một lão nông dân, bỗng chủ nhà từ đâu đến đến hỏi đứa
nào làm vỡ cái vại ở sân nhà ông ta thì tất cả lũ trẻ con đều đồng thanh
trả lời:
- Không phải cháu!
Rõ ràng là khi chúng chưa chơi ở cạnh sân nhà ông ta thì vại chưa vỡ, cớ sao vại lại vỡ, vết tích còn mới hẳn hoi.
Đem
chuyện này hỏi ông giáo già ở làng, ông ấy bảo đó là bệnh cố hữu của
dân quê chúng mình. Cứ chối bay cái đã, không được thì đổ cho đứa khác,
nếu không thể đổ thừa hay chối được thì mới nhận lỗi về mình. Rồi ông
bảo căn nguyên của nó là từ người lớn, từ nền giáo dục, từ thói quen cố
hữu. Trẻ con khi lẫm chẫm biết đi khi nếu chúng bị vấp, ngã thì câu đầu
tiên người lớn nói với nó rằng: "A! con chuột, con chuột làm ngã em phải không, này thì con chuột này, chừa này, không được làm ngã em này..."
kèm theo động tác nhẹ thì đánh vào không khí, quyết liệt hơn thì lấy
que đánh vào cái cột hay dậm chân xuống đất bồ bồ. Mỗ đây cam đoan rằng
đứa trẻ nào cũng nín và có khi cười khanh khách và ăn sâu trong tiềm
thức rằng một con chuột nào đó đã làm ngã nó. Cái đó nó ảnh hưởng sâu
sắc đến tư duy và nhân cách chúng sau này lớn lên. Thói quen chối bỏ
trách nhiệm, phải chăng cũng bắt nguồn từ đó? Các bạn thấy thế nào? Xin
hãy comment!
"Con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm !...". (Lời con trai lão Hạc)
Người theo dõi
Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012
Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012
Nhọc nhằn con chữ trên non (Hardship letters on the mountain)
Mấy
ngày sau nghỉ lễ Y có dịp lên trường vùng cao của tỉnh miền núi vùng
Đông Bắc, đó là Trường Tiểu học, THCS xã Tân Yên ở thôn Pác Mười, xã Tân
Yên, huyện TĐ. Trường đóng trên xã vùng 3 của huyện (xã đặc biệt khó
khăn), dân số thưa thớt đa số là đồng bào dân tộc Dao. Từ thị trấn Thất
Khê đi theo Quốc lộ 3B nối liền với tỉnh Bắc Kạn khoảng gần 40 km đường
khó đi do chưa có mặt đường nhựa hoặc cấp phối và một số đoạn mới mở
rộng nhưng bị đình, giãn, hoãn do suy giảm kinh tế. Nắng bụi mù mịt, mưa
thì trơn lầy, ấy là nắng thì còn đi được chứ mưa thì chắc không thể vào
được bằng ô tô. Tân Yên chỉ cách Cường Lợi, Na Rì, Bắc Kạn chừng hơn
10km, cách tỉnh lỵ 120 km và cách thủ đô chỉ chừng non 300km.
Trường học nằm trên đồi cao cùng với trụ sở UBND xã chật hẹp, cũ kỹ. Có một dãy nhà lớp học và một ngôi nhà nhỏ do Bưu điện tỉnh tặng hình như làm phòng thí nghiệm là kiên cố còn lại là nhà tranh tre nứa là và các dãy ký túc xá minimum có thể đổ bất cứ lúc nào khi mưa bão. Trong đó là các em học sinh tiểu học bán trú dân nuôi, ngây thơ và vô cùng đáng yêu. Hỏi ông Chủ tịch xã thì được tin vui là Tỉnh đoàn hỗ trợ 120 triệu xây nhà bán trú cho các cháu, gạch cát đã đổ vài xe ở sân trường làm ví dụ để các cháu vui nhưng chắc là thấy "khó gặm" nên cái thằng cai thầu khoán chạy mẹ nó đâu mất không thấy tiếp tục khởi công, thi công gì cả, đống cát cứ trôi dần theo mưa.
Cuối tuần cha mẹ chúng đưa đến cùng củi, gạo và rau, hết tuần chúng lại được cha mẹ đón về. Dân còn nghèo và cuộc sống cho dù vô cùng gian khó nhưng luôn thấy bọn trẻ cười, có lẽ trẻ con ai cũng thế, buồn chỉ là chuyện của người lớn. "Với trẻ con, khóc là xong mọi chuyện".
Bọn trẻ học THCS thì tự nấu ăn với nhau, bọn tiểu học lít nhít thì cô giáo nấu cho ăn, bữa cơm đạm bạc.
Có mỗi cái cổng trường là trông có vẻ chính quy

Đây là dãy lớp học của trường
Còn đây là khu Ký túc xá rất hiện đại và thân thiện môi trường của các sinh viên nhí
Lớp học chỉ có mấy em đang làm bài kiểm tra
Trường học nằm trên đồi cao cùng với trụ sở UBND xã chật hẹp, cũ kỹ. Có một dãy nhà lớp học và một ngôi nhà nhỏ do Bưu điện tỉnh tặng hình như làm phòng thí nghiệm là kiên cố còn lại là nhà tranh tre nứa là và các dãy ký túc xá minimum có thể đổ bất cứ lúc nào khi mưa bão. Trong đó là các em học sinh tiểu học bán trú dân nuôi, ngây thơ và vô cùng đáng yêu. Hỏi ông Chủ tịch xã thì được tin vui là Tỉnh đoàn hỗ trợ 120 triệu xây nhà bán trú cho các cháu, gạch cát đã đổ vài xe ở sân trường làm ví dụ để các cháu vui nhưng chắc là thấy "khó gặm" nên cái thằng cai thầu khoán chạy mẹ nó đâu mất không thấy tiếp tục khởi công, thi công gì cả, đống cát cứ trôi dần theo mưa.
Cuối tuần cha mẹ chúng đưa đến cùng củi, gạo và rau, hết tuần chúng lại được cha mẹ đón về. Dân còn nghèo và cuộc sống cho dù vô cùng gian khó nhưng luôn thấy bọn trẻ cười, có lẽ trẻ con ai cũng thế, buồn chỉ là chuyện của người lớn. "Với trẻ con, khóc là xong mọi chuyện".
Bọn trẻ học THCS thì tự nấu ăn với nhau, bọn tiểu học lít nhít thì cô giáo nấu cho ăn, bữa cơm đạm bạc.
Có mỗi cái cổng trường là trông có vẻ chính quy

Đây là dãy lớp học của trường
Còn đây là khu Ký túc xá rất hiện đại và thân thiện môi trường của các sinh viên nhí
Lớp học chỉ có mấy em đang làm bài kiểm tra
Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012
Ghen tỵ với tiền nhân (jealous of your ancestors)
Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012
Chứng tích chiến tranh
Đây là chiếc vỏ bom Mỹ ở huyện Chi Lăng nơi có ga Đồng Mỏ là nơi trung
chuyển hàng hóa viện trợ của bạn bè quốc tế cho chiến trường miền Nam
và cũng là nơi hứng chịu nhiều bom đạn của Mỹ. Chiếc bom nay thành chiếc
kẻng quen thuộc mà Y từng kể ở entry:
http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591157/category/V%C4%83n+h%C3%B3a+-+V%C4%83n+ch%C6%B0%C6%A1ng+-+Th%E1%BA%BF+s%E1%BB%B1
Đánh sảng ở làng Chiềng ( List of villages in Chiang)
Đánh sảng ở làng Chiềng ( List of villages in Chiang)
Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012
Sự giống nhau kỳ lạ
Mới đây, có bạn đọc phát hiện cuốn sách bìa cứng khổ 19 x 27 rất đẹp có
tên Di sản văn hóa Lạng Sơn Tập I Văn hóa vật thể do Nhà xuất bản Văn
hóa Thông tin và Công ty văn hóa trí tuệ Việt ấn hành năm 2006 có sự lạ
là nội dung Kiến trúc nhà cửa và làng bản truyền thống ở Lạng Sơn từ
trang 196 đến trang 200 trong phần Tôn giáo tín ngưỡng và kiến trúc nghệ
thuật truyền thống (Không sắp xếp thành chương mục gì cả) bê nội dung
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Đặng Ân hiện đang được lưu giữ tại Thư viện
của Viện nghiên cứu Văn hóa thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam có cắt
đi một số đoạn rồi xào xáo lại, 3 tấm ảnh cùng chú thích trong luận văn
cũng thấy xuất hiện trong sách.
Mặc dù lấy tiêu đề là Kiến trúc nhà cửa và làng bản truyền thống ở Lạng Sơn nhưng chỉ có phần kiến trúc nhà đất trình tường và nói rõ ;là ở bản Khuyên Hin trong khi Lạng Sơn còn kiến trúc nhà sàn nổi tiếng. Tên của luận văn của Nguyễn Đặng Ân là "Truyền thống xây dựng nhà cửa và làng bản ở bản Khuyên Hin" (Xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn). Luận văn thuộc chuyên ngành văn hóa dân gian mã số 8.02.02 bảo vệ ngày 07/3/2001. Ngay trang 3 luận văn (Bìa cứng, đánh máy vi tính một mặt khổ A4) có lời cam đoan trịnh trọng của tác giả rằng "công trình nghiên cứu là của riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu của công trình này chưa được công bố ở bất kỳ nơi nào khác".
Còn "công trình" Di sản văn hóa Lạng Sơn thì được xuất bản năm 2006, sau nửa thập kỷ.
Trong sách không ghi trích dẫn hay tham khảo từ nguồn nào và tác giả sách cũng không ai có tên là Nguyễn Đặng Ân. Người ta cũng nói rằng không có sự hiệp thông nào giữa ông Nguyễn Đặng Ân với những người làm sách.
Sao lại có sự giống nhau kỳ lạ như vậy nhỉ?
Xem thêm: Xài chùa
Bìa luận văn
Mục lục luận văn
Ảnh trong phần phụ lục của luận văn (Đều xuất hiện ở đại công trình Di sản văn hóa Lạng Sơn)
Và đây là nội dung đại công trình có sự giống nhau kỳ lạ
Bổ sung: bài trên blog Giao
---
Đăng ngày: 15:16 23-06-2011
Mặc dù lấy tiêu đề là Kiến trúc nhà cửa và làng bản truyền thống ở Lạng Sơn nhưng chỉ có phần kiến trúc nhà đất trình tường và nói rõ là ở bản Khuyên Hin, trong khi Lạng Sơn còn kiến trúc nhà sàn nổi tiếng.
Còn "công trình" Di sản văn hóa Lạng Sơn thì được xuất bản năm 2006, sau nửa thập kỷ.
Trong sách không ghi trích dẫn hay tham khảo từ nguồn nào và tác giả sách cũng không ai có tên là Nguyễn Đặng Ân. Người ta cũng nói rằng không có sự hiệp thông nào giữa ông Nguyễn Đặng Ân với những người làm sách.
Mục lục luận văn
Ảnh trong phần phụ lục của luận văn
Và đây là nội dung đại công trình có sự giống nhau kỳ lạ
Mặc dù lấy tiêu đề là Kiến trúc nhà cửa và làng bản truyền thống ở Lạng Sơn nhưng chỉ có phần kiến trúc nhà đất trình tường và nói rõ ;là ở bản Khuyên Hin trong khi Lạng Sơn còn kiến trúc nhà sàn nổi tiếng. Tên của luận văn của Nguyễn Đặng Ân là "Truyền thống xây dựng nhà cửa và làng bản ở bản Khuyên Hin" (Xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn). Luận văn thuộc chuyên ngành văn hóa dân gian mã số 8.02.02 bảo vệ ngày 07/3/2001. Ngay trang 3 luận văn (Bìa cứng, đánh máy vi tính một mặt khổ A4) có lời cam đoan trịnh trọng của tác giả rằng "công trình nghiên cứu là của riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu của công trình này chưa được công bố ở bất kỳ nơi nào khác".
Còn "công trình" Di sản văn hóa Lạng Sơn thì được xuất bản năm 2006, sau nửa thập kỷ.
Trong sách không ghi trích dẫn hay tham khảo từ nguồn nào và tác giả sách cũng không ai có tên là Nguyễn Đặng Ân. Người ta cũng nói rằng không có sự hiệp thông nào giữa ông Nguyễn Đặng Ân với những người làm sách.
Sao lại có sự giống nhau kỳ lạ như vậy nhỉ?
Xem thêm: Xài chùa
Bìa luận văn
Mục lục luận văn
Ảnh trong phần phụ lục của luận văn (Đều xuất hiện ở đại công trình Di sản văn hóa Lạng Sơn)
Và đây là nội dung đại công trình có sự giống nhau kỳ lạ
Bổ sung: bài trên blog Giao
Hình như lại có vi phạm bản quyền : Luận văn của Nguyễn Đặng Ân bị đạo ?
Đăng ngày: 17:04 09-07-2011
Thư mục: Đạo đức nghề nghiệp
Lời dẫn: Bác Ân là bạn blog của tôi (bác này cũng mới gia nhập làng blog). Bài dưới đây mới xuất hiện trên blog bác ấy, tôi copy về và có biên tập thuần túy kĩ thuật đôi chút.
Trên giá sách của tôi, cũng đã có cuốn Di sản văn hóa Lạng Sơn, tập 1.
Nếu bác Ân có qua, thì mời bác đọc chơi lại entry mà tôi đã đi từ mấy năm trước rồi, nó đây:
Chuyện đạo văn/đạo tặc ở bốn phương --- 1 .
Và nếu có thời gian một chút, mời bác đọc cả cái thư mục "Đạo đức nghề nghiệp" trên blog tôi.
Từ đây trở xuống là entry của bác Ân.---
Sự giống nhau kỳ lạ
Mới đây, có bạn đọc phát hiện cuốn sách bìa cứng khổ 19 x 27 rất đẹp có tên Di sản văn hóa Lạng Sơn
,Tập I, Văn hóa vật thể, do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Công ty
văn hóa trí tuệ Việt ấn hành năm 2006 có sự lạ là nội dung Kiến trúc nhà cửa và làng bản truyền thống ở Lạng Sơn từ trang 196 đến trang 200 trong phần Tôn giáo tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật truyền thống (Không sắp xếp thành chương mục gì cả) bê nội dung Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Đặng Ân hiện đang được lưu giữ tại Thư viện của Viện nghiên cứu Văn hóa
thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam có cắt đi một số đoạn rồi xào xáo
lại, 3 tấm ảnh cùng chú thích trong luận văn cũng thấy xuất hiện trong
sách.
Mặc dù lấy tiêu đề là Kiến trúc nhà cửa và làng bản truyền thống ở Lạng Sơn nhưng chỉ có phần kiến trúc nhà đất trình tường và nói rõ là ở bản Khuyên Hin, trong khi Lạng Sơn còn kiến trúc nhà sàn nổi tiếng.
Tên của luận văn của Nguyễn Đặng Ân là "Truyền thống xây dựng nhà cửa và làng bản ở bản Khuyên Hin" (Xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn). Luận văn thuộc chuyên ngành văn hóa dân gian mã số 8.02.02 bảo vệ ngày 07/3/2001.
Ngay trang 3 luận văn (Bìa cứng, đánh máy vi tính một mặt khổ A4) có lời cam đoan trịnh trọng của tác giả rằng "công trình nghiên cứu là của riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu của công trình này chưa được công bố ở bất kỳ nơi nào khác".Còn "công trình" Di sản văn hóa Lạng Sơn thì được xuất bản năm 2006, sau nửa thập kỷ.
Trong sách không ghi trích dẫn hay tham khảo từ nguồn nào và tác giả sách cũng không ai có tên là Nguyễn Đặng Ân. Người ta cũng nói rằng không có sự hiệp thông nào giữa ông Nguyễn Đặng Ân với những người làm sách.
Mục lục luận văn
Ảnh trong phần phụ lục của luận văn
(Đều xuất hiện ở đại công trình Di sản văn hóa Lạng Sơn)
Và đây là nội dung đại công trình có sự giống nhau kỳ lạ
Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012
Thời sinh viên, chuyện bây giờ mới kể (student, now a new story told) Phần I
Ngày
ấy cách đây chưa xa, mới những năm nửa cuối của thập niên 80, thế kỷ
trước lũ sinh viên khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm Việt Bắc bọn tôi
được ở trong ký túc xá trên những quả đồi thấp lúp xúp cạnh đường tàu Hà
Nội - Quán Triều, gần bờ đê trường Đạị học Nông nghiệp 3 Bắc Thái.
Trường đóng trên khu đất rộng mênh mông, có cổng nhưng không có tường rào, cổng không khi nào khóa chắc vì khóa cũng chẳng ích gì.
Có lẽ vì đất quá rộng trên những triền đồi thấp, trong khu vực trường
có đồi thấp, đồi cao, ao, hồ, lò vôi, ruộng đồng... nên trường không có
tường bao quanh. Nhà cửa hầu hết là nhà cấp 4 nhom nhem chỉ có mỗi dãy
nhà hiệu bộ 3 tầng và 2 nhà 2 tầng là khu tập thể giáo viên ở phía bờ ao
đi vào khu trạm xá, lò vôi. Một khu nhà thí nghiệm 3 tầng của khoa Hóa
đối diện nhà hiệu bộ xây mãi không xong, rêu mốc cỏ mọc xanh rì. Khu ký
túc xá có hàng lối nhưng cũng chỉ là nhà cấp 4 lúc bọn tôi vào học được 2
năm mới xây tường bao và có cổng vào.Đó
là một dãy tường gạch bốn phía có mái che được gọi là nhà gồm 9 gian,
chia 3 phòng rộng chừng 60, 70m2, nền xi măng vỡ lồi lõm, cửa giả có
trống hoác, xác xơ, khung cột bê tông, tường gạch 10, kèo sắt lợp ngói
xi măng, không có trần, dây điện nhằng nhịt. Ngoài sân là hàng
cột thu lôi chi chít vì thành phố Thái Nguyên rất nhiều sét. Ngoài sân
là một túp lều trông huơ trống hoác lợp ngói xi măng lụp xụp, xiêu vẹo
vì hay bị sinh viên bẻ rui mè làm củi. Đó là nơi bọn sinh viên về nhà
lấy gạo xuống nấu ăn thêm cho đỡ đói vì xuất ăn gạo thường bị mốc lại ít
không đủ cho cái dạ dày đang tuổi ăn, tuổi lớn của bọn chúng.
Đi
qua đám ruộng luôn lầy lội bên kia là "nơi hạnh phúc thăng hoa và nỗi
buồn giải tỏa" gồm 20 gian chia đều cho hai phái. Đó là thứ nhà tiêu của
nông thôn và lại của tập thể nên không thể bẩn hơn và không hề có cửa.
Các thằng hay xấu hổ như mình hay chọn phía trong để ngồi và có ý chọn ô
nào sạch hơn tý chút thì ngồi nhưng vào trong thì đã có thằng chiếm
quay lại thì chúng nó đi sau chiếm nốt thế là đáng lẽ được đi lại phải
quay ra đợi, thân lừa ưa nặng!Phòng nam và phòng nữ đều chung dãy nhà đó nhưng ngăn bởi bức tường chỉ cao đến trần, đứng giường tầng hai kiễng chân hay đứng lên cái hòm là có thể thấy bên kia nên hai bên biết rõ nhau cả nghĩa đen và nghĩa bóng, có lẽ thế mà 4 năm chả có đôi nào yêu nhau, tất nhiên là thích thì cũng có như thằng Trường kều thích em Hoa Khánh, Tiến Vòng thích Mai Anh người Lạng Sơn, Phú Lỉnh cũng sáng mắt khi liếc vài em ngoài bể nước, Thằng Tuấn Anh cũng thích vài đứa...
Đủ thứ trò đã được bọn chúng nghĩ ra cho quên đi cơn đói và cái buồn ở cái thành phố buị miền núi nửa trung du này từ đàn hát, làm thơ, trộm cá, hoa quả về ăn đến thử thuốc phiện, giả làm đám ma lẫn đánh lộn, "tuyệt thực" toàn trường, cắm quán cô Sen, cô Hồng..đủ cả.
Ảnh Lớp sử K23 Đại học sư phạm chụp ảnh lưu niệm với thầy cô giáo ngày ra trường. Hàng ngồi từ trái qua là Vi Hồng Phú (Cao Bằng) rồi đến các thầy Ngô Thành (LSVNHĐ), Cao Văn Liên (Trưởng Khoa - LSTGHĐ) Nguyễn Nhân (LSTGCĐ- TĐ), Nguyễn Chí Huyên (LSTGHĐ), Lương Văn Bảo (LSVNCĐ-TĐ), Trần Ngọc (KCH), Nguyễn Văn Tiến (LSVNHĐ), Đỗ Hồng Thái (LSĐP), Hoàng Thị Hảo (SV Cao Bằng), Lê Thị Lâm (LSTGTĐ)
Cái vụ tuyệt thực cả trường lây lan theo các trường Hà Nội là do thằng Dũng dê và thằng H. ngạnh cùng tham gia đầu têu viết tờ rơi dán ở ký túc khoa Lý và kích động thành làn sóng phản đối, đến tận hai hôm sau mới đi ăn cơm trở lại, tất nhiên là cơm có đỡ mốc hơn thôi chứ thức ăn vẫn là rau bắp cải, chấm hết. Phòng quản lý sinh viên của thầy Loan, thầy Quyến đi thuyết phục cũng không ăn thua. Có cả bóng an ninh cũng không làm gì được. Ngày ấy mà nói ra thì chắc chắn hai thằng bị đuổi học ít nhất là một năm. Rồi sự việc cũng lắng xuống và không tìm ra "thế lực thù địch" nào cả. Thằng chủ mưu giờ cũng là thạc sỹ, giảng viên Cao đẳng. Khổ nhưng mà vui, láo nhưng mà cũng rất ngoan, cơ chế thị trường chưa len lỏi vào tình thầy trò. Ngày 20/11 đi chúc thầy cũng chỉ là bưu thiếp của Liên Xô in sẵn ngoài chợ mà nội dung có khi là chúc năm mới hay chúc 8/3! hoa thì lúc có lúc không và cũng không to đẹp như bây giờ. Ngày nghỉ đi đóng gạch cho thầy Lương Văn Bảo mệt thấy mẹ nhưng điểm thi vẫn thấp và vẫn "tăng K" (Lưu ban) như thường. Ngẫm lại những đứa ngỗ ngược nhất nay đều nên người...mà là người tốt chứ chả chơi, he he!
Mình được chúng nó bầu làm lớp trưởng nhưng hay nói bậy nên các anh chị Sử 4 bảo cái lớp Sử 1 chúng nó bầu nhầm lớp trưởng, tuy vậy Y cũng tại vị được mấy năm.
Chụp ảnh lưu niệm với lớp 10a3 mà mình chủ nhiệm trường PTTH Lương Ngọc Quyến năm học 1991 - 1992. Y đứng thứ 3 hàng đứng thứ 2 từ phải sang, vẫn cái dáng gầy guộc, tóc dài trùm tai đứng khoanh tay và cái áo màu ghi bỏ ngoài quần trong ảnh ngày ra trường (Đứng sát cạnh bên phải Đặng Văn Thanh áo kẻ cạnh cột giữa ảnh phòng chờ phía khu ngoài giảng đường dãy nhà cấp 4
Cái sự khổ thì chắc sinh viên thời nay không tưởng tượng ra, buổi sáng đa phần là nhịn đói lên lớp. Việc Sinh viên đi qua hàng cơm, tạp hóa cổng trường và có vài con cá mắm hay cục thịt nạc bốc hơi cũng chỉ là điều bình thường. Các chàng anh hùng nhất bộ, thỉnh thoảng mượn quần áo của bạn cũng không lạ. Đồ dùng tối thiểu cũng bị hạn chế đến tối thiểu vì không có tiền và vì có nhiều quá thì chúng bạn cũng "dùng hộ". Mái ngói xô dột, tường nhem nhuốc, thủng lỗ chỗ do các kỹ sư tâm hồn tương lai gây ra.
Tết 90, còn nhớ thằng nào còn sáng tác cả câu đối viết bằng than nguệch ngoạc trên tường:
"Canh Ngọ tiễn ngựa chuồn cả phòng nam cùng tán gái,
Tân Mùi đưa dê đến chúng ta càng dê thêm"
Hết chỗ nói!
Đôi khi hứng lên chúng còn làm thơ Bút Tre đọc cho nhau nghe đến nửa đêm không ngủ, đại loại như:
"Khi tàu đến ga Trung Gia (Trung Giã - Sóc Sơn)
Anh Trường quần chổng rất là khó đi (mô tả cảnh Trường Kều còn gọi là Trường dài đi về cùng bạn gái)
Ngày ấy nhà trường cấm tiệt việc đun bếp bằng may-so (tàu ngầm) của Liên xô nên nấu nướng phải giấu diếm có khi là gầm giường được che kín hay là cho vào hòm khóa lại, cứ thấy cô Liên thợ điện nhà ở cuối bờ đê cầm kìm đi kiểm tra là hò nhau giấu biệt. Được cái phòng có tay Thanh người Phú Lương là em họ của cô Liên nên cô cũng nương tay hơn.
Không biết bây giờ bà cụ Mùi bán bánh mì còn sống hay không chứ bà này thù cái phòng nam chúng tôi lắm. Ngày ấy bà chắc cũng khoảng ngoài 70 tuổi rồi, cứ thấy tiếng rao Ai bánh mì đơơi... ở đầu nhà là mấy thằng lại đóng kín cửa và bịt mũi gọi "Em Mùi ơi bán cho anh cái bánh mì nào", rồi thì "Mùi ơi bánh có nóng không..."
Bà rất tức và chửi lũ sinh viên mất dạy bằng thứ ngôn từ rất chua ngoa cho người ta ăn những thứ mà người ta không ăn, chửi những từ không có trong từ điển. Nhưng chẳng có gì vào đầu mấy thằng đói ăn mới lớn lại vô công rồi nghề mà hình như chửi thế lại làm chúng càng thích thú hơn, vì bà chửi chung chung các thằng sinh viên khoa Sử chứ chẳng nhận ra giọng đứa nào mà chửi, mà có nhận ra giọng thì cũng chẳng làm gì được chúng vì có khi sau đấy chúng lại u u con con bán cho con mấy cái bánh mì không chịu thì lại hòa cả làng, chả nhẽ bà đi bán bánh mì mà lại không bán bánh mì! .
Bà Mùi nghĩ ra cách là réo chửi tên Thầy Nhơn, một ông giáo già đáng kính và khó tính của Khoa Sử nhà chếch bên trái ký túc xá: "Tiên sư cha bố thằng Nhơn già, mày dạy học sinh của mày thế à"..v v và v v. Quả nhiên kế hiểm của bà Mùi có hiệu nghiệm. Thầy lôi chúng tôi ra kiểm điểm, răn dạy làm mấy thằng mất nết sợ xanh mắt mèo. Lại còn vụ ông T. già trong lớp đã có vợ bày trò rình trộm mấy nữ sinh tắm dưới khu tập thể giáo viên nữa chứ, rồi thì buồng chuối tiêu ở vòi nước công cộng đã già quả lại sắp tết cũng bị bọn phòng nam hái cho vào xô sắt để lên bếp điện đun. Thế mà mấy năm không có tai nạn nào về điện chỉ duy có thằng Tuấn Anh Phổ Yên k24 đá bóng lên dây điện ở biến thế đầu đốc khoa Hóa làm chập điện. Xong nó về ký túc xá xách ba lô lộn ra bắt xe về thẳng.
Ngày ấy, Y với Hà Gia khỏe đi nhất, gần tết còn tưỡn đi Hải Phòng, lộn lên Lạng Sơn rồi mới về nhà. Việc gì của lớp cũng có mặt nào là nhà Tuấn Anh cháy nhà tận Định Hóa, nhà Hoa Khánh ở thị xã cao Bằng, Tám tròn Đình Cả có đám ma, cưới Tuyết Hắc Trại Cau...Y và thị đều có mặt.
Thấm thoắt ra trường đã 20 năm, 29 đứa giờ chỉ còn 27, hai đứa đã đi theo các cụ Mac, Lenin.
(Còn nữa)
"Cô cố nhớ lại xem..."
Giá mà bà chị tôi sắm thêm cái khóa như thế này thì chắc có lẽ không bị mất cái yên xe
Có bà chị họ, thời bao cấp khoảng năm 1981 hay 1982 gì đó được ông bác tôi đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài về mua cho chiếc xe Di - A - Măng (Diamond). Ngày ấy xe đạp là quý lắm, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa ấy chứ, đi đâu là phải khóa cẩn thận mặc dù có đăng ký, biển số hẳn hoi. Thế mà có ai học được chữ ngờ, một hôm đi làm như mọi hôm khi ra nhà xe cơ quan thì tá hỏa khi xe vẫn còn mà cái yên xe thì trộm đã tháo đi đâu mất từ bao giờ. Tình huống dở khóc, dở mếu, chị tôi gọi bảo vệ để trình bày, lập biên bản vài người cùng cơ quan hiếu kỳ xúm quanh, bàn tán, an ủi và đưa ra rất nhiều giả thiết. Bác bảo vệ lo lắng và cũng sợ trách nhiệm nữa trước khi lập biên bản còn cố gặng hỏi chị tôi:
- Cô cố nhớ lại xem sáng nay cô đi xe đến có yên không?
Giời ạ, chị tôi không biết trả lời làm sao vì không có yên thì đi thế quái nào được.
Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)