1. Cu Tơn thế mà đã sắp 6 tuổi
Mỗi khi Tơn hư, mẹ hay mắng Tơn là Nhóc con, hư quá
Tơn đáp trả ngay: Nhóc mẹ
Ở đây Tơn đã có sự lẫn lộn ở từ "con" trong cụm từ nhóc con là một danh từ không phải từ ghép
2. Cu Tơn chuẩn bị thay răng. Một hôm đi Mẫu giáo về khoe "Mẹ ơi răng con lung linh rồi"
Chắc là định nói răng lung lay
Ba ngày sau: Buổi tối đang ăn mỳ tôm, Tơn khóc hu hu mẹ ơi con ra một cái rằng rồi, chắc là sợ quá!
3. Sáng ra mặt trời chiếu qua cửa sổ cu Tơn không ngủ được nên bảo mẹ
Mẹ ơi, nhốt ông mặt trời lại, con chói mắt không ngủ được
4. Tơn ngủ dậy, thấy một quả quýt to và một quả quýt nhỏ trên bàn bèn reo lên:
A! hai bố con quả quýt
Xuống tấn!
"Con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm !...". (Lời con trai lão Hạc)
Người theo dõi
Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012
Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012
"U ơi U lấy vợ hai cho thầy.."
Ngày bé, tôi vẫn nghe bà, mẹ tôi và các bà mẹ ở làng Chiềng thường hát ru con mỗi trưa hè nắng gắt:
"Ầu ơ, ...ơ...ơ
Cái Cò mà mổ cái Trai
U ơi U lấy vợ hai cho thầy..."
Giờ nghe thì lạ tai nhưng bà tôi kể ngày xưa phụ nữ, đàn bà trong làng khổ lắm làm gì được tự do tìm hiểu, kết hôn và lại ly hôn...chóng vánh như các anh các chị bây giờ. Thời ấy cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đấy. Con gái 13, 14 tuổi đầu đã tấp tểnh lấy chồng. 17, 18 mà chưa gì là có nguy cơ ... ê sắc rồi. Có khi các bậc cha mẹ giao ước với nhau từ thuở con cái mới lọt lòng. Phụ nữ không có con và không có con trai là một tội tày đình, có thể người chồng thông cảm nhưng với họ hàng gia tộc thì không thể tha thứ. Ngày ấy trai thiếu gái thừa nên đa thê cũng là lẽ thường cho nên những người phụ nữ không con không còn cách nào khác là phải ngậm đắng, nuốt cay chịu cảnh chồng chung mà không dám hé răng than vãn nửa lời. Kiếp người mà lầm lũi như trâu bò, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho giời; một nắng hai sương mà không có lúc nào được an nhàn hạnh phúc kể cả trong giấc ngủ.
Phụ nữ làng tôi nay cũng đã đổi thay, nhiều chị học hành tử tế, đi thoát ly cũng nhiều, câu hát ru bi ai, sầu muộn xưa không còn, thay vào đó là tiếng ầu ơ cất lên réo rắt sau bờ tre mỗi trưa hè:
"Ầu ơ...ơ...
Con ngoan con ngủ với bà
Mẹ nằm với bố cho nhà đông em..."
Tiếng trẻ nín tắp, chỉ còn tiếng ru thi gan với tiếng ve kêu...
Chiều đông phố huyện (ĐC-VN-TN)
"Ầu ơ, ...ơ...ơ
Cái Cò mà mổ cái Trai
U ơi U lấy vợ hai cho thầy..."
Giờ nghe thì lạ tai nhưng bà tôi kể ngày xưa phụ nữ, đàn bà trong làng khổ lắm làm gì được tự do tìm hiểu, kết hôn và lại ly hôn...chóng vánh như các anh các chị bây giờ. Thời ấy cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đấy. Con gái 13, 14 tuổi đầu đã tấp tểnh lấy chồng. 17, 18 mà chưa gì là có nguy cơ ... ê sắc rồi. Có khi các bậc cha mẹ giao ước với nhau từ thuở con cái mới lọt lòng. Phụ nữ không có con và không có con trai là một tội tày đình, có thể người chồng thông cảm nhưng với họ hàng gia tộc thì không thể tha thứ. Ngày ấy trai thiếu gái thừa nên đa thê cũng là lẽ thường cho nên những người phụ nữ không con không còn cách nào khác là phải ngậm đắng, nuốt cay chịu cảnh chồng chung mà không dám hé răng than vãn nửa lời. Kiếp người mà lầm lũi như trâu bò, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho giời; một nắng hai sương mà không có lúc nào được an nhàn hạnh phúc kể cả trong giấc ngủ.
Phụ nữ làng tôi nay cũng đã đổi thay, nhiều chị học hành tử tế, đi thoát ly cũng nhiều, câu hát ru bi ai, sầu muộn xưa không còn, thay vào đó là tiếng ầu ơ cất lên réo rắt sau bờ tre mỗi trưa hè:
"Ầu ơ...ơ...
Con ngoan con ngủ với bà
Mẹ nằm với bố cho nhà đông em..."
Tiếng trẻ nín tắp, chỉ còn tiếng ru thi gan với tiếng ve kêu...
Chiều đông phố huyện (ĐC-VN-TN)
Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012
Khi thầy click chuột...
Khi xưa, lúc học đại
học sư phạm y cũng từng rất thích bài hát Bụi phấn với những ca từ không
thể đẹp hơn về hình ảnh người thầy: "Khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi
rơi..."nhất là nó lại được ngân lên từ các em học trò ngây thơ trong
sáng lúc y đi thực tập.
Hai mươi năm sau, thầy ít viết bảng, chữ cũng cẩu thả dần không biết ít viết hay do tuổi tác, hay do ỷ lại vào máy móc (Projector). Mấy cô hành chính thường hỏi trước khi y lên lớp: "Hôm nay anh có dùng máy chiếu không"?
Không dùng thì sợ bọn trẻ bảo mấy ông bà giáo già cổ hủ, không "pờ - rồ", dùng thì cũng tiện nhưng y vẫn thích viết bảng. Thôi thì đành dùng cả hai vậy...
Phấn không bụi nữa nhưng không có bụi phấn thì bụi thời gian cũng đã vương trên tóc y rồi...nhanh thật. Mới đó mà...
Hai mươi năm sau, thầy ít viết bảng, chữ cũng cẩu thả dần không biết ít viết hay do tuổi tác, hay do ỷ lại vào máy móc (Projector). Mấy cô hành chính thường hỏi trước khi y lên lớp: "Hôm nay anh có dùng máy chiếu không"?
Không dùng thì sợ bọn trẻ bảo mấy ông bà giáo già cổ hủ, không "pờ - rồ", dùng thì cũng tiện nhưng y vẫn thích viết bảng. Thôi thì đành dùng cả hai vậy...
Phấn không bụi nữa nhưng không có bụi phấn thì bụi thời gian cũng đã vương trên tóc y rồi...nhanh thật. Mới đó mà...
Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012
Giáo sư Đặng Vũ Khúc không còn lên làng Chiềng nữa rồi!
Thế
là GS.TSKH Đặng Vũ Khúc không còn lên làng Chiềng giỗ bố tôi vào tháng
Tư hằng năm được nữa rồi! Chiều hôm qua, vào 16h25' ngày 21/11/2012
(nhằm ngày 09/10 năm Nhâm Thìn), trái tim của nhà khoa học địa chất hàng
đầu nước ta đã ngừng đập tại Bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội (1931-2012).
Gia quyến sẽ tổ chức tang lễ cho Bác tại số 5 Trần Thánh Tông, Hai Bà Trưng Hà Nội vào lúc 11h30' đến 13h00' ngày 23/11 và hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn Vũ hồi 16h00' cùng ngày sau đó đưa di cốt về an táng tại quê nhà, thôn Lê Xá, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội vào sáng ngày 24/11/2012
Bác Khúc, người bác ruột kính yêu của tôi đã trở về với cát bụi!
Sống gửi, thác về. Cháu cầu chúc cho linh hồn của Bác siêu thoát về miền cực lạc!
Bác Khúc ơi!
Tang lễ ngày 23/11/2012
Xem thêm GS Đặng Vũ Khúc ở đây:
http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591222/category/Family
Gia quyến sẽ tổ chức tang lễ cho Bác tại số 5 Trần Thánh Tông, Hai Bà Trưng Hà Nội vào lúc 11h30' đến 13h00' ngày 23/11 và hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn Vũ hồi 16h00' cùng ngày sau đó đưa di cốt về an táng tại quê nhà, thôn Lê Xá, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội vào sáng ngày 24/11/2012
Bác Khúc, người bác ruột kính yêu của tôi đã trở về với cát bụi!
Sống gửi, thác về. Cháu cầu chúc cho linh hồn của Bác siêu thoát về miền cực lạc!
Bác Khúc ơi!
Tang lễ ngày 23/11/2012
Xem thêm GS Đặng Vũ Khúc ở đây:
http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591222/category/Family
Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012
Câu chuyện bên bờ con sông chảy ngược (Part II) hay là món cháo vịt giả khoai!
Đường
vào khu tập thể hồi ấy lầy lội ổ voi bởi các loại xe khách, xe tải, xe
"chuồng gà" chở hàng lậu của Trung Quốc ra vào ngày đêm. Cơ quan nằm
giữa bãi đất trống huơ tứ bề ấy nên cũng lắm chuyện buồn cười. Thỉnh
thoảng lại có anh mất cốp hay gương xe máy. Đó là những tay nhà giàu chứ
cái thứ trên răng, dưới "cát - tút" như bọn y thì chả có gì để mất cả.
Bọn gánh hàng rong, rau cỏ đi qua cơ quan suốt ngày nào thì quần áo,
đánh giầy, rau quả, bẫy chuột, đồ ăn cắp cũng có... Có đến phân nửa thời
gian làm việc của bọn công chức rỗi việc bị tốn vào đấy. Nhiều đứa con
cán bộ thời ấy thường theo cha mẹ lên cơ quan, được cái việc ít mà lại
không "cháy nhà chết người" nên cũng chả sao, chúng cứ lớn lên một cách
tự nhiên như củ khoai, củ sắn. Lương thấp nếu không nói là cực thấp
(Lương đại học mới ra trường của y lúc đó tròm trèm 10 vạn, mua được
khoảng trên trăm gói mì tôm hạng trung) nên các bác lãnh đạo cũng vì thế
mà chả mắng mỏ gì, thi thoảng còn đùa vui với lũ trẻ và còn cho chúng
kẹo bánh nữa. Những đứa trẻ ấy giờ đây khối đứa đã trở thành sinh viên
của các trường đại học danh tiếng vào loại bậc nhất của Hà Thành như
FTU, HUST...HUC
Vui cũng kiểu vui của con nhà nghèo, mỗi khi có sự kiện gì các cô, các chị lại vào bếp nấu nướng rồi liên hoan, cũng nhạc sập xình từ cát-xét Tàu rồi nhảy loạn trong hơi men phấn khích ầm ĩ cả khu đầu cầu như ngày xưa thôn quê có gánh hát về làng, cả các bậc cao nhân đáng kính cũng tham gia rất chi là nhiệt tình, bọn du đãng đi qua cũng nghển cổ ghé nhìn và lấy thế làm lạ lắm. Vào mùa World Cup hay Euro thì vui hết biết, đêm nào mấy bác trong khu tập thể cũng vác Ti vi ra sân (để các bà vợ đỡ cằn nhằn) hò reo cả đêm, đó là những bữa tiệc thể thao thật sự đối với y và gã cử nhân tân khoa thời ấy, bởi hai gã mọt sách không có nổi cái TV để xem dù chỉ là đen trắng. Sáng nào hai thằng cũng phải dậy sớm thập thò ở cửa nhà hàng xóm xem ké TV khi mà chiếu những bộ phim dài tập để đời của truyền hình Tung Của như Tể tướng Lưu gù, Nghiệp chướng...hay những bộ phim của truyền hình Việt Nam thời còn ăn khách như 12A và 4H...
Đêm chung kết Uôn - Cup 94 rồi 98 thể nào cơ quan cũng nấu cháo vịt liên hoan, có năm y và gã cử nhân cùng phòng được giao nhổ lông vịt ở nhà bà Trưởng phòng đáng kính ven sông có 2 cô con gái xinh như mộng chửa có chồng, không biết do bản tính vụng thối vụng nát cố hữu hay do mải liếc hai em mà bọn chúng nhổ tuột hết cả da vịt như bóc củ khoai. Rồi nồi cháo nóng với những cái bụng đói lúc đêm khuya hay vì bóng đá quên đi mọi ưu sầu, phiền muộn, con người ta trở nên dễ tính, độ lượng hơn mà không thấy ai chê bai hay xét nét món thịt vịt không da của hai thằng, he he
Năm ấy, trời làm lụt lội, nước sông KC lên cao mấp mé bờ, cả đêm ấy xóm nghèo thức trắng để...xem nước lên. Cũng chả có gì phải lo lắm vì đồ đạc cũng không có gì nhiều. Chỉ lo cái kho đồ "đồng nát" của cơ quan bị ngập thì lại quy trách nhiệm cho nhau hết hơi.
Khu tập thể cạnh đầu cây cầu sắt nên đêm đêm tiếng xe nghiến mặt cầu rung ầm ầm, inh tai nhức óc, riết rồi cũng thành quen. Thỉnh thoảng lại có người chán sống nhảy cầu tự tử. Cả xóm lại hò nhau ra xem y hệt ở làng quê với thói tò mò cố hữu của người Việt.
Rời chốn nhà quê ra nơi phồn hoa đô thị nhưng lối sống, cách hành xử vẫn đậm đặc chất quê, mà biết đâu như thế lại là giữ gìn bản sắc, hay gì đâu đua đòi lối sống nửa thị thành, nửa nhà quê. Bản chất lưu manh thị thành vẫn chưa thể một đời có thể ngấm ngay vào những con người kẻ quê ấy được.
Hết thật.
Vui cũng kiểu vui của con nhà nghèo, mỗi khi có sự kiện gì các cô, các chị lại vào bếp nấu nướng rồi liên hoan, cũng nhạc sập xình từ cát-xét Tàu rồi nhảy loạn trong hơi men phấn khích ầm ĩ cả khu đầu cầu như ngày xưa thôn quê có gánh hát về làng, cả các bậc cao nhân đáng kính cũng tham gia rất chi là nhiệt tình, bọn du đãng đi qua cũng nghển cổ ghé nhìn và lấy thế làm lạ lắm. Vào mùa World Cup hay Euro thì vui hết biết, đêm nào mấy bác trong khu tập thể cũng vác Ti vi ra sân (để các bà vợ đỡ cằn nhằn) hò reo cả đêm, đó là những bữa tiệc thể thao thật sự đối với y và gã cử nhân tân khoa thời ấy, bởi hai gã mọt sách không có nổi cái TV để xem dù chỉ là đen trắng. Sáng nào hai thằng cũng phải dậy sớm thập thò ở cửa nhà hàng xóm xem ké TV khi mà chiếu những bộ phim dài tập để đời của truyền hình Tung Của như Tể tướng Lưu gù, Nghiệp chướng...hay những bộ phim của truyền hình Việt Nam thời còn ăn khách như 12A và 4H...
Đêm chung kết Uôn - Cup 94 rồi 98 thể nào cơ quan cũng nấu cháo vịt liên hoan, có năm y và gã cử nhân cùng phòng được giao nhổ lông vịt ở nhà bà Trưởng phòng đáng kính ven sông có 2 cô con gái xinh như mộng chửa có chồng, không biết do bản tính vụng thối vụng nát cố hữu hay do mải liếc hai em mà bọn chúng nhổ tuột hết cả da vịt như bóc củ khoai. Rồi nồi cháo nóng với những cái bụng đói lúc đêm khuya hay vì bóng đá quên đi mọi ưu sầu, phiền muộn, con người ta trở nên dễ tính, độ lượng hơn mà không thấy ai chê bai hay xét nét món thịt vịt không da của hai thằng, he he
Năm ấy, trời làm lụt lội, nước sông KC lên cao mấp mé bờ, cả đêm ấy xóm nghèo thức trắng để...xem nước lên. Cũng chả có gì phải lo lắm vì đồ đạc cũng không có gì nhiều. Chỉ lo cái kho đồ "đồng nát" của cơ quan bị ngập thì lại quy trách nhiệm cho nhau hết hơi.
Khu tập thể cạnh đầu cây cầu sắt nên đêm đêm tiếng xe nghiến mặt cầu rung ầm ầm, inh tai nhức óc, riết rồi cũng thành quen. Thỉnh thoảng lại có người chán sống nhảy cầu tự tử. Cả xóm lại hò nhau ra xem y hệt ở làng quê với thói tò mò cố hữu của người Việt.
Rời chốn nhà quê ra nơi phồn hoa đô thị nhưng lối sống, cách hành xử vẫn đậm đặc chất quê, mà biết đâu như thế lại là giữ gìn bản sắc, hay gì đâu đua đòi lối sống nửa thị thành, nửa nhà quê. Bản chất lưu manh thị thành vẫn chưa thể một đời có thể ngấm ngay vào những con người kẻ quê ấy được.
Hết thật.
Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012
Hiện vật quý - chai bia BGI cổ niên đại 1875
Hôm rồi dọn nhà mới thấy cái chai bia lăn lóc góc nhà, nhặt lên xem thì
thấy là lạ không biết được sản xuất năm nào, có ghi Sài Gòn 1875, Đây là
chai bia của hãng B.G.I có biểu tượng con cọp, lô gô, chữ trên thân
chai đều in bằng sơn nổi nhưng rất chắc vì không thấy bị bong tróc. Các
thông số trên thân chai bằng tiếng Pháp. Các vỏ chai bia hiện nay đều
dán nhãn bằng giấy. Chai bằng thủy tinh màu hồng đỏ rất đẹp. Loại bia
này hình như mới tái xuất tại Việt Nam mới đây mà hiện nay chỉ thấy dân
miền Trung sử dụng.
Mặt có hình vẽ (Ảnh 1) có ghi:
Mặt có chữ ghi:
Vỏ chai bia 33ml
Thời buổi công nghệ mà cán bộ Bảo tàng vẫn xử lý hiện vật như mẹ đĩ nhà cháu đang tẽ ngô ở nhà quê ý.
Mặt có hình vẽ (Ảnh 1) có ghi:
MARQUE DÉPOSSEE
BIERE DE LUXE
"33"
EXPORT
BRASSERIES & GLACIERES
, DE L' INDOCHINE
BGI
BIERE DE LUXE
"33"
EXPORT
BRASSERIES & GLACIERES
, DE L' INDOCHINE
BGI
Mặt có chữ ghi:
BIÈRE
FABRIQUÉE AVEC DES MALTS
D'ORGES SÉLECTIONNÉES ET DES
HOUBLONS DES CRUS LES PLUS
RENOMMÉS
*
BRASSERIES ET GLACIÈRES
DE L' INDOCHINE
SAIGON
ANCIENS E TS V.LARUE
ETABLIS AU VIET - NAM DEPUIS
1875
Ai quan tâm xin mời liên hệ với chủ nhân (anvpqh@yahoo.com).FABRIQUÉE AVEC DES MALTS
D'ORGES SÉLECTIONNÉES ET DES
HOUBLONS DES CRUS LES PLUS
RENOMMÉS
*
BRASSERIES ET GLACIÈRES
DE L' INDOCHINE
SAIGON
ANCIENS E TS V.LARUE
ETABLIS AU VIET - NAM DEPUIS
1875
Vỏ chai bia 33ml
Thời buổi công nghệ mà cán bộ Bảo tàng vẫn xử lý hiện vật như mẹ đĩ nhà cháu đang tẽ ngô ở nhà quê ý.
Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012
Ký ức thời gian
Các
cụ bảo "trẻ vui nhà, già vui chùa", y chưa đến tuổi vui chùa và y cũng
not female nên không đi chùa vì tuổi già nhưng y cũng không còn trẻ nữa.
Việc đi chùa của y khá tình cờ và hấp dẫn bởi Chùa Vĩnh Nghiêm có mộc
bản mới được UNESCO công nhận là di sản tư liệu khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương - trong Giấy ghi nhận phát tâm công đức của chùa in như vậy
(Anh cán bộ đi cùng thì giới thiệu là di sản ký ức của nhân loại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đọc báo chí cũng thấy nói như thế).
Chùa nằm ở Đức La thôn, Chí Dũng xã, Yên Dũng huyện, Bắc Giang tỉnh. Chùa ẩn khuất trong những lũy tre làng thanh bình bên cánh đồng lúa mênh mang. Đường vào chốn tổ đình Vĩnh Nghiêm với những mộc bản phong phú của chùa khá thuận lợi bên những cánh đồng thẳng cánh cò bay và núi Cô Tiên huyền thoại cách đường cái quan chừng 20 cây - lô - mếch và cách Hà Thành chừng 1,5 giờ đi ô tô, đường đi rất thuận tiện vì đã được bê tông hóa và nhựa hóa hoàn toàn, tận sân chùa.
Vì có liên hệ trước nên đoàn của y được tận mắt và tận tay chiêm ngưỡng và cảm nhận những mộc bản rất tinh túy bằng chữ nho của tiền nhân để lại. Cổng vào chùa bằng đá và gỗ rất hoành tráng chắc là mới xây nhưng chùa thì thật là cổ kính với kiến trúc cổ và nhiều chạm khắc tinh xảo. Nhiều pho tượng gỗ cổ đậm màu thời gian không sơn son thếp vàng càng tôn vinh giá trị ngôi chùa, nền đất mát lạnh, bài trí đúng phật pháp.
Theo Đại đức trụ trì tại chùa cho biết Chùa Vĩnh Nghiêm hiện còn lưu giữ hơn 3.000 mộc bản kinh Phật, được khắc từ thế kỷ 16-19 để phục vụ đào tạo tăng ni phật tử thiền phái Trúc Lâm và cả nước. Mỗi bản có hai mặt, khắc chữ Hán Nôm âm bản (khắc ngược) gồm nhiều nội dung: y học, văn học, bùa chú, luật giới nhà Phật... Bản khắc lớn nhất có chiều dài hơn 1m, rộng 40-50cm với những chạm khắc hoa văn độc đáo.
Chùa
Vĩnh Nghiêm được mệnh danh là “Đại danh lam cổ tự”, một trung tâm
Phật giáo lớn nhất của thời Trần, một chốn tổ quan trọng của 3 vị Trúc
Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang) từng trụ trì và mở
trường thuyết pháp.
Chuẩn bị khởi hành...
Vào Chùa...
Nghe Đại đức trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm giới thiệu về lịch sử ngôi chùa và mộc bản
Hiện vật mộc bản được phục chế để trưng bày phục vụ khách vãng cảnh chùa
Tượng Phật nghìn mắt nghìn tay
Chùa nằm ở Đức La thôn, Chí Dũng xã, Yên Dũng huyện, Bắc Giang tỉnh. Chùa ẩn khuất trong những lũy tre làng thanh bình bên cánh đồng lúa mênh mang. Đường vào chốn tổ đình Vĩnh Nghiêm với những mộc bản phong phú của chùa khá thuận lợi bên những cánh đồng thẳng cánh cò bay và núi Cô Tiên huyền thoại cách đường cái quan chừng 20 cây - lô - mếch và cách Hà Thành chừng 1,5 giờ đi ô tô, đường đi rất thuận tiện vì đã được bê tông hóa và nhựa hóa hoàn toàn, tận sân chùa.
Vì có liên hệ trước nên đoàn của y được tận mắt và tận tay chiêm ngưỡng và cảm nhận những mộc bản rất tinh túy bằng chữ nho của tiền nhân để lại. Cổng vào chùa bằng đá và gỗ rất hoành tráng chắc là mới xây nhưng chùa thì thật là cổ kính với kiến trúc cổ và nhiều chạm khắc tinh xảo. Nhiều pho tượng gỗ cổ đậm màu thời gian không sơn son thếp vàng càng tôn vinh giá trị ngôi chùa, nền đất mát lạnh, bài trí đúng phật pháp.
Theo Đại đức trụ trì tại chùa cho biết Chùa Vĩnh Nghiêm hiện còn lưu giữ hơn 3.000 mộc bản kinh Phật, được khắc từ thế kỷ 16-19 để phục vụ đào tạo tăng ni phật tử thiền phái Trúc Lâm và cả nước. Mỗi bản có hai mặt, khắc chữ Hán Nôm âm bản (khắc ngược) gồm nhiều nội dung: y học, văn học, bùa chú, luật giới nhà Phật... Bản khắc lớn nhất có chiều dài hơn 1m, rộng 40-50cm với những chạm khắc hoa văn độc đáo.
Chuẩn bị khởi hành...
Vào Chùa...
Nghe Đại đức trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm giới thiệu về lịch sử ngôi chùa và mộc bản
Hiện vật mộc bản được phục chế để trưng bày phục vụ khách vãng cảnh chùa
Tượng Phật nghìn mắt nghìn tay
Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012
Câu chuyện bên bờ con sông chảy ngược
Đặt
cái title cho tò mò câu view vậy thôi chứ thực ra y muốn kể về cuộc
sống thời bao cấp trong khu tập thể bên bờ sông KC mà y từng ở khi mới
bước vào đời.
Đó là vào khoảng những năm đầu tiên của thập kỷ cuối của thế kỷ trước mới ra trường, y xách ba lô lộn bắt xe ngược lên xin việc ở một tỉnh miền núi.
Cơ quan bố trí cho hai ông cử non ở một gian ở khu tập thể bên bờ con sông một thời huynh đệ tương tàn chưa xa, khiến nhà báo Ta- Ca - Nô của xứ Phù Tang phải bỏ mạng.
Gọi là khu tập thể nhưng vô cùng nhếch nhác gần nhà tù cũ của bọn thực dân đế quốc sài lang, lúc bấy giờ trở thành bãi tập kết xe chở rác của Công ty vệ sinh môi trường. Đó là một dãy nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói xi măng dài như cái nhà dài của đồng bào Ê-đê, M'nông ở Tây Nguyên dễ có đến hai chục gian. Mỗi gian là một hộ cán bộ của mấy cơ quan ngành cờ đèn kèn hoa và vài cơ quan khác sinh sống, phòng chỉ có một cửa ra vào duy nhất không có cửa sổ, không trần, không khép kín, khi đóng cửa thì tối om như hũ nút. Mùa hè thì nóng chảy mỡ, mùa đông thì gió bắc lùa thấu xương, hễ có mưa bão thì chuẩn bị chậu mà hứng nước. Khổ là vậy nhưng không ai có ý định sửa sang lại vì nghèo và cũng vì cha chung không ai khóc. Y và một ông cử vốn rất giỏi cái chữ thánh hiền quê một tỉnh cửa ngõ thủ đô nay đã đi vào dĩ vãng được phân vào một gian tập thể, thôi thế cũng tốt chán vì không phải đi thuê.
Cả xóm, mỗi nhà có một gian bếp con con phía trước (trừ gian y ở không có, đun bếp dầu luôn trong phòng) được lợp bằng đủ thứ vật liệu chắp và từ giấy dầu, tấm lợp và tất cả những gì có thể, tường trát đất xiêu vẹo thấp lè tè, ẩm thấp, hôi hám không bằng cái chuồng vịt của nông thôn mới bây giờ. Ấy vậy mà chứa trong đó là những con người có trình độ, nhiệt huyết ngùn ngụt với nghề. Con người sống trong xóm nghèo cũng rất chân tình, thân ái. Việc gì cũng có nhau vui, buồn, "khi chén rượu, khi cuộc chè"...hay mỗi khi World cup, vợ giận đều sẻ chia rất chi là thân thiết.
Y và gã cử nhân tân khoa được phân vào một phòng thay nhau nấu cơm hàng ngày, thức ăn chỉ hai món xào luộc quen thuộc, thi thoảng lắm mới dám sáng kiến món mới vì chẳng biết nấu và cũng vì cái ví chưa hết tháng đã lép kẹp. Nhưng mà cũng hay hung hăng uống rượu như Phết, có hôm 3 thằng mà ngả hết gần 4 chai rượu loại rượu săm ô tô nồng nặc mùi cồn đựng trong chai bia tàu, say đến 3 ngày chưa hoàn hồn đến nỗi nôn ra nửa chậu tuyền nước, he he
Lúc mới lên công tác, nhiều đêm mưa gió hai thằng trằn trọc không ngủ được thấy hàng xóm có nhiều tiếng động lạ như có kẻ trộm rình mò, rồi thì lại thấy tiếng thở hồng hộc, tiếng rên la ư ử. Thôi chết, chắc các bác hàng xóm lại đau ốm sốt cao rồi đây, lại lo cho cái thân mình đất khách quê người, gạo châu củi quế mà lương thì eo hẹp gặp cảnh ốm đau không người thân bên cạnh thì biết làm thế nào, thế là lại lo cả đêm. Cũng may, một lúc sau thì các nhà hàng xóm lại ngáy pho pho, chắc là họ có sẵn thuốc cảm dự phòng. Sau này mấy thằng mới lớn có kinh nghiệm mới biết là họ chẳng ốm đau gì sất mà thậm chí là đang rất khỏe, he he!
Gian nhà ấy vậy mà cũng nuôi nấng giấc mộng đèn sách của hai chàng thành sự thực; gian phòng ấy còn là "giảng đường" của y dạy lũ học trò cuối cấp 3. Trên chục đứa ngồi chen chúc, đứa ngồi ghế, kẻ ngồi trên giường, bàn học thì tận dụng các loại. Bảng bằng tấm pa - no sơn đen gắn lên tường, cái chạn bát kiêm luôn bàn giáo viên của y. Giờ học từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối cũng là giờ hàng xóm nấu cơm, mắng con..râm ran!
Xóm nghèo khi ấy cũng có một doanh nhân (quốc doanh) trong ngành tạm coi thành đạt, lúc mới ra đời cái điện thoại nối dài còn gọi là "máy mẹ, máy con" to bằng cục gạch lúc nào cũng như vật bất ly thân của bác ta, kể cả đi xuống bếp nó réo líu lo cả ngày thấy rất là ngưỡng mộ.
Hồi ấy nhiều cán bộ ngoài việc nhà nước còn làm thêm bên kinh doanh vận tải mà dân địa phương quen gọi là "Cẩu pỉnh". Chiều chiều từng bầy Min-xcơ đổ về xóm rầm rập, vui tai, từng đống tiền lẻ được đổ ra đếm và vuốt mép xếp lại, đầu tư cho tương lai.
Cả khu tập thể có một bể nước công cộng đầu xóm. Mọi sinh hoạt diễn ra ở đó như cái giếng làng ở quê. Có hôm, anh em thằng Chẫu chuộc, thằng Gạo ra tắm truồng, cô Phụng trong xóm tuổi trăng rằm ra rửa rau, y phải sốt ruột chờ cái vòi chảy ri rỉ như ve đái nên mới cao giọng mắng mấy thằng:
- Ê, thằng Chẫu, thằng Gạo! Chúng bay về nhà mà tắm hay ít ra cũng phải mặc cái quần đùi vào chứ, mày có thấy chị Phụng tắm ở bể như thế bao giờ không?. Cô Phụng đỏ mặt lảng đi, hai thằng bé chừng 9,10 tuổi cũng xấu hổ bỏ về thế là y chiếm trọn cái vòi công cộng tha hồ tắm gội.
Lại có hai cha con nhà nọ giữa trưa ngồi xổm cắt tóc cho con ngoài sân tập thể, bố cứ loay hoay cắt cho con, còn ông con trạc 6, 7 tuổi trùm áo mưa cứ thản nhiên lấy que chọc ngoáy "thằng em" của ông bố như một trò chơi thú vị, nhìn cảnh ấy, đố ai nhịn được cười!
Nhà vệ sinh công cộng cách xa khu tập thể hơn trăm mét gồm bốn gian, đó là thứ nhà xí thời bao cấp rất bẩn không tự hoại, không dội nước nên rất hôi thối, trời nồm và nắng lại càng hôi tệ mà sáng ra chờ nhau cũng hết hơi. Giấy vệ sinh là giấy báo cũ tận dụng của cơ quan, tiếng vò báo sột soạt, tiếng hất nước râm ran buổi sáng, đôi anh kỹ tính còn đốt lửa cho đỡ ám khí. Ấy vậy mà dãy nhà vệ sinh lại có khóa và rất nhiều khóa mới tài vì khu ấy ô hợp đầy dân buôn bán ở trọ vãng lai. Bởi mỗi nhà một khóa không chung nhau nên cái chùm khóa có khi đến 5, 6 cái. Tuy nhiên không biết do vô tình hay cố ý mà có anh đi xong khóa không đúng quy trình mà lại khóa tắt nên có vài cái vẫn móc ở chùm nhưng dù có mở được khóa nhà mình nhưng vẫn không vào được vì nó không theo móc xích nguyên tắc cái nọ nối với cái kia sao cho cái nào cũng có thể mở được nên rất mót mà không được đi đành nhăn mặt chửi đổng rồi quay về tìm "thủ phạm". Có đứa quái đản cứ rình buổi tối ra đái vào chùm khóa, thứ khóa Trung Quốc hàng địa phương bằng sắt gặp nước đái mặn két lại, vài hôm thì kẹt không tài nào mở được.
Chỗ tập thể ấy gần sông nên bọn này hay ra đó tắm, chỉ mùa thu và mùa đông thôi vì mùa hè nước lúc nào cũng đục ngầu. Có lần bọn y xuống bãi cạn (not Scarborough!) tắm cùng với một văn sỹ nơi thượng nguồn sông Thương tên Đấu, hắn nhỏ người loắt choắt nhưng rất tinh ranh, hoạt ngôn có lẽ vì thế nên có biệt danh là monkey, hồi ấy còn thịnh hành mốt tất xù của tàu, trời rét hắn ta biện liền hai đôi hiên ngang cùng bọn y xuống bãi cạn đốt lửa rồi cởi quần áo ào xuống tắm. Vốn không chịu được rét hắn lên bờ trước sấp ngửa thay quần áo. Không biết đãng trí hay rét quá mà một chân hắn đi liền 3 cái tất nên chân kia chỉ còn một cái, thế là hắn dáo dác đi tìm quanh quẩn rồi lại nhìn theo dòng nước hay là nó trôi mất, rồi lại nghi ngờ hay đứa nào chơi xỏ giấu đi của hắn. Mãi sau y mới bảo hắn kiểm tra xem chân kia mấy tất thì ra đúng là có ba cái, cả bọn cứ cười ngặt nghẽo. Thấm thoắt đã hơn chục năm cái xóm nghèo ấy bị giải tán không thương tiếc để xây trung tâm thương mại, mỗi người chạy mỗi ngả, giờ đây có người đã trở thành thiên cổ, những đứa trẻ bọn y còn bế ẵm ngày ấy nhiều đứa giờ đã lấy vợ lấy chồng rồi sinh con đẻ cái.
Chếch phía cầu là xóm trọ và xưởng sửa chữa ô tô, rồi thì ổ làm nước mắm giả quanh năm bốc mùi...
Mười lăm năm trôi đi, xóm nghèo ngày xưa nay chửa thấy trung tâm thương mại hiện đại đâu, vẫn chỉ là bãi đất hoang cho chó ỉa, cỏ mọc...tuy là có hàng rào bằng tole che xung quanh...
(Còn nữa)
Đó là vào khoảng những năm đầu tiên của thập kỷ cuối của thế kỷ trước mới ra trường, y xách ba lô lộn bắt xe ngược lên xin việc ở một tỉnh miền núi.
Cơ quan bố trí cho hai ông cử non ở một gian ở khu tập thể bên bờ con sông một thời huynh đệ tương tàn chưa xa, khiến nhà báo Ta- Ca - Nô của xứ Phù Tang phải bỏ mạng.
Gọi là khu tập thể nhưng vô cùng nhếch nhác gần nhà tù cũ của bọn thực dân đế quốc sài lang, lúc bấy giờ trở thành bãi tập kết xe chở rác của Công ty vệ sinh môi trường. Đó là một dãy nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói xi măng dài như cái nhà dài của đồng bào Ê-đê, M'nông ở Tây Nguyên dễ có đến hai chục gian. Mỗi gian là một hộ cán bộ của mấy cơ quan ngành cờ đèn kèn hoa và vài cơ quan khác sinh sống, phòng chỉ có một cửa ra vào duy nhất không có cửa sổ, không trần, không khép kín, khi đóng cửa thì tối om như hũ nút. Mùa hè thì nóng chảy mỡ, mùa đông thì gió bắc lùa thấu xương, hễ có mưa bão thì chuẩn bị chậu mà hứng nước. Khổ là vậy nhưng không ai có ý định sửa sang lại vì nghèo và cũng vì cha chung không ai khóc. Y và một ông cử vốn rất giỏi cái chữ thánh hiền quê một tỉnh cửa ngõ thủ đô nay đã đi vào dĩ vãng được phân vào một gian tập thể, thôi thế cũng tốt chán vì không phải đi thuê.
Cả xóm, mỗi nhà có một gian bếp con con phía trước (trừ gian y ở không có, đun bếp dầu luôn trong phòng) được lợp bằng đủ thứ vật liệu chắp và từ giấy dầu, tấm lợp và tất cả những gì có thể, tường trát đất xiêu vẹo thấp lè tè, ẩm thấp, hôi hám không bằng cái chuồng vịt của nông thôn mới bây giờ. Ấy vậy mà chứa trong đó là những con người có trình độ, nhiệt huyết ngùn ngụt với nghề. Con người sống trong xóm nghèo cũng rất chân tình, thân ái. Việc gì cũng có nhau vui, buồn, "khi chén rượu, khi cuộc chè"...hay mỗi khi World cup, vợ giận đều sẻ chia rất chi là thân thiết.
Y và gã cử nhân tân khoa được phân vào một phòng thay nhau nấu cơm hàng ngày, thức ăn chỉ hai món xào luộc quen thuộc, thi thoảng lắm mới dám sáng kiến món mới vì chẳng biết nấu và cũng vì cái ví chưa hết tháng đã lép kẹp. Nhưng mà cũng hay hung hăng uống rượu như Phết, có hôm 3 thằng mà ngả hết gần 4 chai rượu loại rượu săm ô tô nồng nặc mùi cồn đựng trong chai bia tàu, say đến 3 ngày chưa hoàn hồn đến nỗi nôn ra nửa chậu tuyền nước, he he
Lúc mới lên công tác, nhiều đêm mưa gió hai thằng trằn trọc không ngủ được thấy hàng xóm có nhiều tiếng động lạ như có kẻ trộm rình mò, rồi thì lại thấy tiếng thở hồng hộc, tiếng rên la ư ử. Thôi chết, chắc các bác hàng xóm lại đau ốm sốt cao rồi đây, lại lo cho cái thân mình đất khách quê người, gạo châu củi quế mà lương thì eo hẹp gặp cảnh ốm đau không người thân bên cạnh thì biết làm thế nào, thế là lại lo cả đêm. Cũng may, một lúc sau thì các nhà hàng xóm lại ngáy pho pho, chắc là họ có sẵn thuốc cảm dự phòng. Sau này mấy thằng mới lớn có kinh nghiệm mới biết là họ chẳng ốm đau gì sất mà thậm chí là đang rất khỏe, he he!
Gian nhà ấy vậy mà cũng nuôi nấng giấc mộng đèn sách của hai chàng thành sự thực; gian phòng ấy còn là "giảng đường" của y dạy lũ học trò cuối cấp 3. Trên chục đứa ngồi chen chúc, đứa ngồi ghế, kẻ ngồi trên giường, bàn học thì tận dụng các loại. Bảng bằng tấm pa - no sơn đen gắn lên tường, cái chạn bát kiêm luôn bàn giáo viên của y. Giờ học từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối cũng là giờ hàng xóm nấu cơm, mắng con..râm ran!
Xóm nghèo khi ấy cũng có một doanh nhân (quốc doanh) trong ngành tạm coi thành đạt, lúc mới ra đời cái điện thoại nối dài còn gọi là "máy mẹ, máy con" to bằng cục gạch lúc nào cũng như vật bất ly thân của bác ta, kể cả đi xuống bếp nó réo líu lo cả ngày thấy rất là ngưỡng mộ.
Hồi ấy nhiều cán bộ ngoài việc nhà nước còn làm thêm bên kinh doanh vận tải mà dân địa phương quen gọi là "Cẩu pỉnh". Chiều chiều từng bầy Min-xcơ đổ về xóm rầm rập, vui tai, từng đống tiền lẻ được đổ ra đếm và vuốt mép xếp lại, đầu tư cho tương lai.
Cả khu tập thể có một bể nước công cộng đầu xóm. Mọi sinh hoạt diễn ra ở đó như cái giếng làng ở quê. Có hôm, anh em thằng Chẫu chuộc, thằng Gạo ra tắm truồng, cô Phụng trong xóm tuổi trăng rằm ra rửa rau, y phải sốt ruột chờ cái vòi chảy ri rỉ như ve đái nên mới cao giọng mắng mấy thằng:
- Ê, thằng Chẫu, thằng Gạo! Chúng bay về nhà mà tắm hay ít ra cũng phải mặc cái quần đùi vào chứ, mày có thấy chị Phụng tắm ở bể như thế bao giờ không?. Cô Phụng đỏ mặt lảng đi, hai thằng bé chừng 9,10 tuổi cũng xấu hổ bỏ về thế là y chiếm trọn cái vòi công cộng tha hồ tắm gội.
Lại có hai cha con nhà nọ giữa trưa ngồi xổm cắt tóc cho con ngoài sân tập thể, bố cứ loay hoay cắt cho con, còn ông con trạc 6, 7 tuổi trùm áo mưa cứ thản nhiên lấy que chọc ngoáy "thằng em" của ông bố như một trò chơi thú vị, nhìn cảnh ấy, đố ai nhịn được cười!
Nhà vệ sinh công cộng cách xa khu tập thể hơn trăm mét gồm bốn gian, đó là thứ nhà xí thời bao cấp rất bẩn không tự hoại, không dội nước nên rất hôi thối, trời nồm và nắng lại càng hôi tệ mà sáng ra chờ nhau cũng hết hơi. Giấy vệ sinh là giấy báo cũ tận dụng của cơ quan, tiếng vò báo sột soạt, tiếng hất nước râm ran buổi sáng, đôi anh kỹ tính còn đốt lửa cho đỡ ám khí. Ấy vậy mà dãy nhà vệ sinh lại có khóa và rất nhiều khóa mới tài vì khu ấy ô hợp đầy dân buôn bán ở trọ vãng lai. Bởi mỗi nhà một khóa không chung nhau nên cái chùm khóa có khi đến 5, 6 cái. Tuy nhiên không biết do vô tình hay cố ý mà có anh đi xong khóa không đúng quy trình mà lại khóa tắt nên có vài cái vẫn móc ở chùm nhưng dù có mở được khóa nhà mình nhưng vẫn không vào được vì nó không theo móc xích nguyên tắc cái nọ nối với cái kia sao cho cái nào cũng có thể mở được nên rất mót mà không được đi đành nhăn mặt chửi đổng rồi quay về tìm "thủ phạm". Có đứa quái đản cứ rình buổi tối ra đái vào chùm khóa, thứ khóa Trung Quốc hàng địa phương bằng sắt gặp nước đái mặn két lại, vài hôm thì kẹt không tài nào mở được.
Chỗ tập thể ấy gần sông nên bọn này hay ra đó tắm, chỉ mùa thu và mùa đông thôi vì mùa hè nước lúc nào cũng đục ngầu. Có lần bọn y xuống bãi cạn (not Scarborough!) tắm cùng với một văn sỹ nơi thượng nguồn sông Thương tên Đấu, hắn nhỏ người loắt choắt nhưng rất tinh ranh, hoạt ngôn có lẽ vì thế nên có biệt danh là monkey, hồi ấy còn thịnh hành mốt tất xù của tàu, trời rét hắn ta biện liền hai đôi hiên ngang cùng bọn y xuống bãi cạn đốt lửa rồi cởi quần áo ào xuống tắm. Vốn không chịu được rét hắn lên bờ trước sấp ngửa thay quần áo. Không biết đãng trí hay rét quá mà một chân hắn đi liền 3 cái tất nên chân kia chỉ còn một cái, thế là hắn dáo dác đi tìm quanh quẩn rồi lại nhìn theo dòng nước hay là nó trôi mất, rồi lại nghi ngờ hay đứa nào chơi xỏ giấu đi của hắn. Mãi sau y mới bảo hắn kiểm tra xem chân kia mấy tất thì ra đúng là có ba cái, cả bọn cứ cười ngặt nghẽo. Thấm thoắt đã hơn chục năm cái xóm nghèo ấy bị giải tán không thương tiếc để xây trung tâm thương mại, mỗi người chạy mỗi ngả, giờ đây có người đã trở thành thiên cổ, những đứa trẻ bọn y còn bế ẵm ngày ấy nhiều đứa giờ đã lấy vợ lấy chồng rồi sinh con đẻ cái.
Chếch phía cầu là xóm trọ và xưởng sửa chữa ô tô, rồi thì ổ làm nước mắm giả quanh năm bốc mùi...
Mười lăm năm trôi đi, xóm nghèo ngày xưa nay chửa thấy trung tâm thương mại hiện đại đâu, vẫn chỉ là bãi đất hoang cho chó ỉa, cỏ mọc...tuy là có hàng rào bằng tole che xung quanh...
(Còn nữa)
Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012
Mưa nắng Đồng Nai
Mấy
ngày qua y vừa du hý Quảng Ninh về, trời đã giữa thu, biển Bãi Cháy
lặng như tờ vi không giông bão, khách du lịch thưa dần, từng đoàn tàu du
lịch neo đậu gần bờ thấy ảm đạm. Trời mưa rả rích chả đi đâu chơi được
đành đứng ban công khách sạn Hạ Long Dream làm vài kiểu ảnh ngõ hầu
chứng minh rằng y có đến đây.
Bãi Chãy vắng vẻ vào mùa thu
Rời Hạ Long về nhà, tình cờ y có được tập ký sự "Mưa nắng Đồng Nai" do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành của nhà văn Võ Nguyện, người Huế, cư trú Sài Gòn nhưng lại là Hội viên Hội VHNT Đồng Nai!
Chắc bác ta nhớ câu ca dao:
"Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng".
Bác Nguyện thì chắc gắn bố Đồng Nai quá rồi nhưng y cũng có vài lần đến đó, đọc ký của bác mới hiểu thêm về vùng đất địa linh nhân kiệt này.
Tập ký của nhà văn Võ Nguyện trên tủ sách nhà y
Tập ký vừa phải, hành văn dung dị, những điều bác kể y cũng có nghe đâu đó nhưng qua tập ký toát lên lòng yêu Đồng Nai, yêu môi trường của tác giả..y đọc một mạch đến hết rồi thở phào!
Cứ ngỡ là một nhà hoạt động môi trường không của Việt Nam thì cũng của Tổ chức Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP).
Ẩn trong những dòng ký sự là tấm lòng trĩu nặng với môi sinh và nỗi lo cho hậu thế!
Trừ vài bài cuối còn lại là về môi trường với những nỗi niềm đau đáu về cả môi trường sống và môi trường xã hội. Con người ngày càng khó bảo lẫn nhau và lạnh lùng với nhau quá! Nhiều câu hỏi cuối bài của Võ Nguyện đang chờ con người trả lời:
"Con người đang phá nhà của voi hỏi sao voi không trả đũa? (Voi đi đâu?)
"Nhưng con người chỉ cần chạy theo lợi nhuận thì rắn đã chết rồi. Ai độc hơn ai?" (Đôi chuyện về rắn)
"Suối Tôm ở Trị An đầy tôm hùm nay còn đâu?" (Nhộn nhịp thịt rừng)
"Sông ơi! Xin sông đừng chết!" (Sông ơi! đừng chết)
.......
Những câu hỏi, câu cảm thán xoáy vào lòng người có lương tri..
âu cũng cũng là tấm lòng của nhà văn Võ Nguyện mà chúng ta nên trân trọng. Những chuyện ông kể đều là sự thật trần trụi, đau lòng mà y biết sự thật còn hơn thế nữa. Cũng chỉ vì mưu sinh của con người chụp giật sống hôm nay không biết đến ngày mai, không lo gì cho hậu thế. Tập ký là lời cảnh tỉnh với con người và với các nhà quản lý, nếu không nhanh chóng có ý thức ứng xử đúng mực với thiên nhiên thì sẽ sớm lãnh hậu quả khôn lường và thực tế đã lãnh...
Có một điều hơi khó chịu khi đọc tập ký nhưng có lẽ ngoài tầm kiểm soát của nhà văn đó là nhiều lỗi chính tả quá, có lẽ người đọc morat hôm đó tâm tư chuyện gì đó nên lơ đễnh chăng???
Y đi thị sát bằng cano của Công an tỉnh trên sông Đồng Nai
Bãi Chãy vắng vẻ vào mùa thu
Rời Hạ Long về nhà, tình cờ y có được tập ký sự "Mưa nắng Đồng Nai" do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành của nhà văn Võ Nguyện, người Huế, cư trú Sài Gòn nhưng lại là Hội viên Hội VHNT Đồng Nai!
Chắc bác ta nhớ câu ca dao:
"Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng".
Bác Nguyện thì chắc gắn bố Đồng Nai quá rồi nhưng y cũng có vài lần đến đó, đọc ký của bác mới hiểu thêm về vùng đất địa linh nhân kiệt này.
Tập ký của nhà văn Võ Nguyện trên tủ sách nhà y
Tập ký vừa phải, hành văn dung dị, những điều bác kể y cũng có nghe đâu đó nhưng qua tập ký toát lên lòng yêu Đồng Nai, yêu môi trường của tác giả..y đọc một mạch đến hết rồi thở phào!
Cứ ngỡ là một nhà hoạt động môi trường không của Việt Nam thì cũng của Tổ chức Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP).
Ẩn trong những dòng ký sự là tấm lòng trĩu nặng với môi sinh và nỗi lo cho hậu thế!
Trừ vài bài cuối còn lại là về môi trường với những nỗi niềm đau đáu về cả môi trường sống và môi trường xã hội. Con người ngày càng khó bảo lẫn nhau và lạnh lùng với nhau quá! Nhiều câu hỏi cuối bài của Võ Nguyện đang chờ con người trả lời:
"Con người đang phá nhà của voi hỏi sao voi không trả đũa? (Voi đi đâu?)
"Nhưng con người chỉ cần chạy theo lợi nhuận thì rắn đã chết rồi. Ai độc hơn ai?" (Đôi chuyện về rắn)
"Suối Tôm ở Trị An đầy tôm hùm nay còn đâu?" (Nhộn nhịp thịt rừng)
"Sông ơi! Xin sông đừng chết!" (Sông ơi! đừng chết)
.......
Những câu hỏi, câu cảm thán xoáy vào lòng người có lương tri..
âu cũng cũng là tấm lòng của nhà văn Võ Nguyện mà chúng ta nên trân trọng. Những chuyện ông kể đều là sự thật trần trụi, đau lòng mà y biết sự thật còn hơn thế nữa. Cũng chỉ vì mưu sinh của con người chụp giật sống hôm nay không biết đến ngày mai, không lo gì cho hậu thế. Tập ký là lời cảnh tỉnh với con người và với các nhà quản lý, nếu không nhanh chóng có ý thức ứng xử đúng mực với thiên nhiên thì sẽ sớm lãnh hậu quả khôn lường và thực tế đã lãnh...
Có một điều hơi khó chịu khi đọc tập ký nhưng có lẽ ngoài tầm kiểm soát của nhà văn đó là nhiều lỗi chính tả quá, có lẽ người đọc morat hôm đó tâm tư chuyện gì đó nên lơ đễnh chăng???
Y đi thị sát bằng cano của Công an tỉnh trên sông Đồng Nai
Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012
Bạn đang ở giai đoạn nào?
Hôm
ngồi uống bia bên bờ biển Mũi Né, Bình Thuận được ông bạn "Đào lộn hột"
tức Điều (hơi xách mé tý, xin lỗi ông bạn quý) kể cho nghe tên các loài
cá nước mặn ứng với chu kỳ sinh học của cánh đàn ông ta, cười sặc cả
bia, suýt lăn ra bãi cát mà ngẫm thấy đúng quá. Hồi còn học ở Viện
nghiên cứu văn hóa có hẳn một môn gọi là "Văn hóa dân gian miền biển"
hàng mấy chục tiết do PGS Viện phó Lê Hồng Lý dạy mà tuyệt nhiên không
thấy thầy dạy hay kể chi tiết thú vị đó.
Này nhé khi bé thì gọi cá CHIM, lớn chút thì cá CU, chút nữa thì cá BÓP, thành niên thì cá ĐÙ, về già thì cá ĐUỐI, không đủ sức thì cá CHUỒN, cuối đời thì cá LIỆT. Bạn (hay ông xã, bạn giai của bạn) đang ở giai đoạn nào? Xem lại xem có phải cá ĐUỐI hay cá CHUỒN không, mau mau đi tìm loại rượu "hải lục không quân" (gồm tắc kè, cá ngựa, bìm bịp, sao biển...) về mà cải thiện, để cá LIỆT thì cầm chắc giàn lý nhà bạn sắp đổ rồi đó.
Hình ảnh bộ xương CÁ ÔNG VOI LƯNG XÁM (THE SKELETON OF FIN WHALE)
BALAENOPTERA PHYSALUS (LINNAEUS, 1758)
Chiều dài toàn thân 22m, trọng lương cơ thể 65 tấn. Đây là bộ xương cá Ông Voi lớn nhất Việt Nam và cũng là lớn nhất Đông Nam Á)
(Chụp ở Dinh Vạn Thủy Tú, thành phố Phan Thiết)
Đây là Bằng xác nhận kỷ lục (Trong khung kính, dưới ánh điện, máy ảnh thì cũ, người chụp thì kém nên ảnh không rõ, bà con thông cảm)
Ngư dân đang hoàn thiện thuyền thúng để đi biển câu mực, bắt cá, nhưng mà cái bác ngồi ngoài "lộ hàng" quá!(Giá mỗi chiếc thành phẩm khoảng hơn 2 triệu đồng)
Trong ảnh là cầu treo Lê Hồng Phong bắc qua sông Cà Ty ở thành phố Phan Thiết, Bình Thuận, cây cầu rất đẹp nhưng nghe nói người dân cự nự rằng cầu này có "treo" đồng chí Lê Hồng Phong hồi nào đâu, vậy nên nhà chức trách đã phải đặt lại tên cây cầu và gắn biển là "CẦU DÂY VĂNG LÊ HỒNG PHONG"
Này nhé khi bé thì gọi cá CHIM, lớn chút thì cá CU, chút nữa thì cá BÓP, thành niên thì cá ĐÙ, về già thì cá ĐUỐI, không đủ sức thì cá CHUỒN, cuối đời thì cá LIỆT. Bạn (hay ông xã, bạn giai của bạn) đang ở giai đoạn nào? Xem lại xem có phải cá ĐUỐI hay cá CHUỒN không, mau mau đi tìm loại rượu "hải lục không quân" (gồm tắc kè, cá ngựa, bìm bịp, sao biển...) về mà cải thiện, để cá LIỆT thì cầm chắc giàn lý nhà bạn sắp đổ rồi đó.
Hình ảnh bộ xương CÁ ÔNG VOI LƯNG XÁM (THE SKELETON OF FIN WHALE)
BALAENOPTERA PHYSALUS (LINNAEUS, 1758)
Chiều dài toàn thân 22m, trọng lương cơ thể 65 tấn. Đây là bộ xương cá Ông Voi lớn nhất Việt Nam và cũng là lớn nhất Đông Nam Á)
(Chụp ở Dinh Vạn Thủy Tú, thành phố Phan Thiết)
Đây là Bằng xác nhận kỷ lục (Trong khung kính, dưới ánh điện, máy ảnh thì cũ, người chụp thì kém nên ảnh không rõ, bà con thông cảm)
Ngư dân đang hoàn thiện thuyền thúng để đi biển câu mực, bắt cá, nhưng mà cái bác ngồi ngoài "lộ hàng" quá!(Giá mỗi chiếc thành phẩm khoảng hơn 2 triệu đồng)
Trong ảnh là cầu treo Lê Hồng Phong bắc qua sông Cà Ty ở thành phố Phan Thiết, Bình Thuận, cây cầu rất đẹp nhưng nghe nói người dân cự nự rằng cầu này có "treo" đồng chí Lê Hồng Phong hồi nào đâu, vậy nên nhà chức trách đã phải đặt lại tên cây cầu và gắn biển là "CẦU DÂY VĂNG LÊ HỒNG PHONG"
Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2012
Ông Đãng Làng Chiềng
Chẳng biết
ông Đãng đến làng Chiềng từ khi nào, nhưng chắc chắn không phải từ ngày
các cư dân đồng bằng sông Hồng chạy giặc Cờ Đen đến Làng Chiềng khai
hoang lập bản. Nghe nói ông là người Hà Tây, nay đã thuộc kinh thành
Thăng Long. Có lẽ là người đến sau nên ông không vào làng mà chọn doi
đất nổi lên giữa xứ đồng Tu Luông để "đóng đô" ở đấy, chỗ ấy gần làng
Áng nhưng "biên chế" lại ở Làng Chiềng dù xa hơn. Vốn có cái lanh lợi
sẵn có của người dân đồng bằng duyên hải, ông vừa làm ruộng vừa kiêm lái
trâu. Những năm bao cấp nhà nhà khốn khó ông Đãng vẫn sống sung túc.
Thời ông Đãng, phong kiến đã qua mà Chủ nghĩa xã hội còn chưa tới không
còn mốt sập gụ tủ chè nhưng nhà ông lúc nào cũng thóc lúa đầy nhà, vịt
gà đầy sân và ông luôn rủng rỉnh tiền tiêu từ nghề lái trâu. Thời ấy
người ta chỉ lo làm sao vơ cái gì cho đầy bụng, không đến mức chết đói,
rét là được không mưu cầu giàu có cao sang gì. Người ta còn gọi ông là
ông Quang Đãng hay "Bố ông Giời".
Gọi ông Quang Đãng bởi tên cúng cơm của ông là Quang còn Đãng là gọi theo tên con. Vốn làng Chiềng chỉ gọi tên con nhưng chắc ông hay bông phèng nên người ta gọi cả tên kép là ông "Quang Đãng"
Còn "Bố ông Giời" thì là vì ông hay chửi giời chả kiêng nể gì cả, trời mưa ông cũng chửi Đ.m ông giời, nắng hay gió ông cũng chửi, tóm lại động tý là ông chửi Đ.m giời nên làng Chiềng gọi là bố ông giời vì chỉ có bố ông Giời mới dám chửi giời, rồi ông luôn than vãn câu cửa miệng: Khổ đời rồi!
Đường vào làng Chiềng ngày nay
Y nhớ như in thời còn bé Bố ông Giời đã có chiếc xe đạp PEUGEOT của Pháp quốc màu lá mạ, loại xe dam (Xe dam là xe nữ, gốc từ chữ madam là quý bà, khung chéo không phải như xe nam khung ngang) ông hay dùng để đi chợ phố huyện. Nhà giữa cánh đồng nên mỗi khi ra đường cái quan ông phải dắt xe, tiếng líp kêu giòn tanh tách vui tai, thỉnh thoảng thấy người cấy dưới ruộng ông lại bấm chuông kêu kính coong, kính coong nắng chiều chiếu vào cái xe bóng loáng ánh kim của ông sáng cả cánh đồng Tu Luông. Trời mưa thì ông cắp nách ra tận đường cho đỡ bẩn. Cái xe thời ấy có khi đến tận bạc nghìn chứ chả chơi. Mỗi khi về chợ, trên ghi đông xe PEUGEOT của ông là một miếng thịt lợn xâu lạt treo lủng lẳng quết đất, nhìn mà thèm.
Thời ấy như thế là sung túc lắm lắm, làng hiếm có ai được như thế bởi vợ con ông đông và chăm chỉ căn cơ. Mỗi lần bán trâu ông lại có lời cả trăm bạc. Ông hiền lành và hay nói, hay chửi, chửi ngọt sớt...
Mỗi lần ông đi dắt trâu về dọc đường cái quan thi thoảng gặp cái ô tô trên đường trâu vốn trong rừng thấy lạ lại lồng lên, bọn trẻ thích chí lắm, hỏi xéo ông Đãng:
- Ông ơi sao nó lại chạy thế?
Ông Đãng giả nhời ngọt như mía mà cay độc:
- Khổ đời rồi, Bố nó chết đấy em à, đi đéo đâu mà vội thế (Ý ông nói cái xe ô tô làm con trâu của ông nó lồng) Bọn trẻ con làng lấy thế làm thích thú cười tít!.
Lớn lên, y đi tha phương cầu thực thấm thoắt đã gần ba chục năm, ông Đãng già rồi mất nhưng những câu chuyện về ông Đãng lắm lúc khiến y bật cười một mình.
Hôm tuần trước Y về thấy nhiều thứ trong làng thay đổi, Làng Chiềng nay cũng dần chuyển mình từ làng lên phố. Nhà ông Đãng vẫn giữa đồng Tu Luông. Người làng Chiềng muôn đời nay vẫn thế thôi, không biết có phải???
Nhưng thói quen tắm giếng thì người làng Chiềng vẫn giữ như xưa.
Gọi ông Quang Đãng bởi tên cúng cơm của ông là Quang còn Đãng là gọi theo tên con. Vốn làng Chiềng chỉ gọi tên con nhưng chắc ông hay bông phèng nên người ta gọi cả tên kép là ông "Quang Đãng"
Còn "Bố ông Giời" thì là vì ông hay chửi giời chả kiêng nể gì cả, trời mưa ông cũng chửi Đ.m ông giời, nắng hay gió ông cũng chửi, tóm lại động tý là ông chửi Đ.m giời nên làng Chiềng gọi là bố ông giời vì chỉ có bố ông Giời mới dám chửi giời, rồi ông luôn than vãn câu cửa miệng: Khổ đời rồi!
Đường vào làng Chiềng ngày nay
Y nhớ như in thời còn bé Bố ông Giời đã có chiếc xe đạp PEUGEOT của Pháp quốc màu lá mạ, loại xe dam (Xe dam là xe nữ, gốc từ chữ madam là quý bà, khung chéo không phải như xe nam khung ngang) ông hay dùng để đi chợ phố huyện. Nhà giữa cánh đồng nên mỗi khi ra đường cái quan ông phải dắt xe, tiếng líp kêu giòn tanh tách vui tai, thỉnh thoảng thấy người cấy dưới ruộng ông lại bấm chuông kêu kính coong, kính coong nắng chiều chiếu vào cái xe bóng loáng ánh kim của ông sáng cả cánh đồng Tu Luông. Trời mưa thì ông cắp nách ra tận đường cho đỡ bẩn. Cái xe thời ấy có khi đến tận bạc nghìn chứ chả chơi. Mỗi khi về chợ, trên ghi đông xe PEUGEOT của ông là một miếng thịt lợn xâu lạt treo lủng lẳng quết đất, nhìn mà thèm.
Thời ấy như thế là sung túc lắm lắm, làng hiếm có ai được như thế bởi vợ con ông đông và chăm chỉ căn cơ. Mỗi lần bán trâu ông lại có lời cả trăm bạc. Ông hiền lành và hay nói, hay chửi, chửi ngọt sớt...
Mỗi lần ông đi dắt trâu về dọc đường cái quan thi thoảng gặp cái ô tô trên đường trâu vốn trong rừng thấy lạ lại lồng lên, bọn trẻ thích chí lắm, hỏi xéo ông Đãng:
- Ông ơi sao nó lại chạy thế?
Ông Đãng giả nhời ngọt như mía mà cay độc:
- Khổ đời rồi, Bố nó chết đấy em à, đi đéo đâu mà vội thế (Ý ông nói cái xe ô tô làm con trâu của ông nó lồng) Bọn trẻ con làng lấy thế làm thích thú cười tít!.
Lớn lên, y đi tha phương cầu thực thấm thoắt đã gần ba chục năm, ông Đãng già rồi mất nhưng những câu chuyện về ông Đãng lắm lúc khiến y bật cười một mình.
Hôm tuần trước Y về thấy nhiều thứ trong làng thay đổi, Làng Chiềng nay cũng dần chuyển mình từ làng lên phố. Nhà ông Đãng vẫn giữa đồng Tu Luông. Người làng Chiềng muôn đời nay vẫn thế thôi, không biết có phải???
Nhưng thói quen tắm giếng thì người làng Chiềng vẫn giữ như xưa.
Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012
Thuốc hay chữa bệnh
Ngày nay nhiều người bị những bệnh rất oái oăm mà xưa ít gặp, ví dụ như
bệnh mà y văn gọi là bài tiết dưỡng chất, triệu chứng là đi tiểu nước
đục, đóng cặn (không phải tiểu đường) người gầy rộc, ăn uống, bồi bổ bao
nhiêu cũng không lại. Nhiều bệnh nhân đã đi khám và dùng nhiều thuốc
tây và can thiệp tây y nhưng bệnh tình không thuyên giảm.
Một lần tình cờ ngồi uống cà - phê sáng trên đường Hùng Vương, thành phố Lạng Sơn với giáo sư Nguyễn Minh Thuyết; trước cửa quán ấy có một cây đa lông, ông mới kể người nhà của ông bị bệnh này chữa mãi không khỏi. Cũng cần lưu ý rằng nếu nước tiểu đóng cặn lâu ngày sẽ gây tắc nghẽn không được phải phẫu thuật (mổ). Một lần nghe ông lang mách lấy rễ củ của cây đa lông và cây rau dừa chăn lợn ở ngoài đồng ruộng hay mọc về mùa hè sao vàng cho khô rồi sắc uống thay nước chè hàng ngày, giáo sư đã làm theo. Rất đơn giản vậy mà bệnh thuyên giảm rồi khỏi hẳn. Đúng là gặp thầy gặp thuốc. Nếu bạn hay người thân của bạn có bị bệnh trên thì nên áp dụng xem sao, nhưng tôi khuyên là trước khi dùng hãy viết thư hỏi cụ thể giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên đại biểu Quốc hội Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn về cách dùng, liều dùng.
GS Nguyễn Minh Thuyết, cựu ĐBQH tỉnh Lạng Sơn
Một lần tình cờ ngồi uống cà - phê sáng trên đường Hùng Vương, thành phố Lạng Sơn với giáo sư Nguyễn Minh Thuyết; trước cửa quán ấy có một cây đa lông, ông mới kể người nhà của ông bị bệnh này chữa mãi không khỏi. Cũng cần lưu ý rằng nếu nước tiểu đóng cặn lâu ngày sẽ gây tắc nghẽn không được phải phẫu thuật (mổ). Một lần nghe ông lang mách lấy rễ củ của cây đa lông và cây rau dừa chăn lợn ở ngoài đồng ruộng hay mọc về mùa hè sao vàng cho khô rồi sắc uống thay nước chè hàng ngày, giáo sư đã làm theo. Rất đơn giản vậy mà bệnh thuyên giảm rồi khỏi hẳn. Đúng là gặp thầy gặp thuốc. Nếu bạn hay người thân của bạn có bị bệnh trên thì nên áp dụng xem sao, nhưng tôi khuyên là trước khi dùng hãy viết thư hỏi cụ thể giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên đại biểu Quốc hội Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn về cách dùng, liều dùng.
GS Nguyễn Minh Thuyết, cựu ĐBQH tỉnh Lạng Sơn
CŨNG CHỈ LÀ BÁT CƠM MANH ÁO...
Nghe kể lại,
ấy là chuyện của công chức với những ai là chuyên viên chính hay nhăm
nhe muốn thành chuyên viên cao cấp, hòng tăng thêm tý lương trong thời
buổi "gạo châu củi quế" giá cả nhảy múa tưng bừng và có khi lao
như tên bắn. Cái cảnh "sáng vác ô đi tối vác về" đã chán muốn đổi đời
sang "Sáng vác ô (tô) đi tối vác về" he he...
Đầu tiên là hắn ta phải hội đủ một số yếu tố A,B,C gì đó và sau đó là phải đi học một cua "cave" (từ lóng chỉ chuyên viên - CV) cao cấp tại Học viện Hành chính quốc gia (Chắc các Học viện khác không có chữ quốc gia thì không phải quốc gia, he he) sau đó là nín thở nằm im đừng vi phạm gì chờ đến lượt đi thi và phải nhớ nguyên tắc bất di bất dịch "Đường sữa từ trên xuống, cuốc xẻng từ dưới lên" do đó nhiều anh chờ đến lúc hưu mà vẫn chưa được đi thi vì chỉ tiêu có hạn mà người muốn thi và người có chứng chỉ thì rất nhiều. Chả thế mà mấy bác già vui tính bảo cuối đời đi học kiếm cái chứng chỉ về để mai mốt ngõ hầu viết cái điếu văn cho sinh động thôi!
Lễ Khai giảng một khóa bồi dưỡng quản lý nhà nước Chương trình Chuyên viên cao cấp
Trước đây Chuyên viên cao cấp là đồ xa sỉ quý hiếm vì nó ít và có phần "xịn" hơn bây giờ nhiều. Cả năm Học viện mới hân hoan đón lớp học viên cao cấp (theo lời thầy giáo), giờ thì một năm rất nhiều lớp, nhiều vùng miền, khu vực các thầy cũng không thể nhớ hết. Giảng đường học viện sử dụng hết công suất. Chả thế mà cách đây vài năm cán bộ, giáo viên của Học viện mới có vài trăm thì nay đã ngót một ngàn, cũng theo lời thầy.
Cũng bởi mở nhiều nên tiêu chí bị hạ bớt xuống thảm hại, các Trưởng phòng và tương đương cũng được cử đi, trẻ nhất chỉ có 38 tuổi, có anh lương còn chưa quá 4 phẩy. Cơ chế ở đây cũng rất linh hoạt bởi nuôi sống cả bộ máy khổng lồ ấy mà chờ bao cấp thì chắc đóng cửa trường.
Tiêu chí đã vậy thì chất lượng thế nào? Chuyên viên cao cấp và chuyên viên chính cũng không khác nhau về "chất" là bao, có chăng là khác nhau về thang bậc lương vốn đã vô vàn sự bất cập khập khiễng vô lý, vô lối. Cũng vì lẽ đó mà đi học và đi thi CVCC cũng chỉ là bát cơm manh áo mà thôi! Hay là đi học lơ là nên không nhận thức được gì nhỉ, he he
Trước đây chương trình học 3 tháng nay cắt đi chỉ còn gần 2 tháng trong đó gần một tháng học và đi thực tế thời gian còn lại viết một đề án tối thiểu 15 trang và không quá 35 trang nói chung 20 trang, bìa cứng nhũ vàng là đẹp. Làm hai bài kiểm tra chưa thấy ai trượt mặc dù cũng dọc phách cũng chấm thi, cũng đề cương câu hỏi cũng niêm phong đề với lời dặn học viên không được sử dụng tài liệu và cán bộ coi thi không được giải thích gì thêm, he he
Khổ cho các học viên già vốn làm sếp chỉ quen chỉ tay và... ký giờ ngồi viết 3 tiếng vật vã khổ sở, mà không làm bài kiểm tra thì không được. Thời tiết Hà Nội tháng 6 ngột ngạt, phòng không có điều hòa, nhiều cha béo quá sống trong nhà vệ sinh nhiều hơn vì chốc chốc lại phải vào dội nước cho mát. Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò, câu này luôn đúng với bọn học sinh. Tay nào cũng mong thầy ốm, thầy cho nghỉ sớm; chắc cũng khác lũ sinh viên trẻ nên giờ nào thầy cũng hứa trước là cho nghỉ sớm hoặc đại loại là người nói phải nghỉ trước khi người nghe dừng việc nghe, rồi thì nghỉ sớm cũng là văn hóa v v và v v Ai đời sàn nhà lát gỗ ép công nghiệp mà các bố đổ cả xô nước ra cho mát, trước khi đi ăn cơm còn đổ thêm nửa xô cho chắc ăn! Gỗ ép gặp nước nở ra như bánh đa ngâm nước.
Sản phẩm của những "ca - ve" già sau 2 tháng dùi mài...
Dù chỉ là hai tháng không đầy đủ chưa biết hết mặt nhau nhưng lớp nào cũng làm kỷ yếu vì là thông lệ và có người làm cho trọn gói cho rồi!
Vui nhất là vụ đi thực tế vì trong chương trình nó thế! he he
Tay nào cũng sợ lớp về địa phương mình thực tế vì lớp nào cũng đông như quân Nguyên, tiếp ăn đã đủ như tằm ăn rỗi. Nhiều anh có chức sắc làm đến phó tỉnh trưởng cũng hốt. Cái loại trưởng phó ngành thì không nói vì nó cũng sợ nhưng những tay trong diện hạ tiêu chí thì hết hơi vì không khéo tỉnh nghĩ "rước" về nên sợ ăn chửi, he he, khổ thật
Nhưng rồi vẫn phải đi và cũng nhiều người thích đi vì cũng lắm anh ở nhà công việc căng thẳng đi thế khác gì đi chơi!
Vui nhất vẫn là tụ tập tán gẫu, bia bọt trêu đùa như bọn sinh viên mới nhập trường. Đi học hai tháng, bọn già được trẻ lại đến mấy tuổi.
Một lớp học lên đường đi thực tế
Hà Nội mùa hè 2012 - Nghe kể lại
Đầu tiên là hắn ta phải hội đủ một số yếu tố A,B,C gì đó và sau đó là phải đi học một cua "cave" (từ lóng chỉ chuyên viên - CV) cao cấp tại Học viện Hành chính quốc gia (Chắc các Học viện khác không có chữ quốc gia thì không phải quốc gia, he he) sau đó là nín thở nằm im đừng vi phạm gì chờ đến lượt đi thi và phải nhớ nguyên tắc bất di bất dịch "Đường sữa từ trên xuống, cuốc xẻng từ dưới lên" do đó nhiều anh chờ đến lúc hưu mà vẫn chưa được đi thi vì chỉ tiêu có hạn mà người muốn thi và người có chứng chỉ thì rất nhiều. Chả thế mà mấy bác già vui tính bảo cuối đời đi học kiếm cái chứng chỉ về để mai mốt ngõ hầu viết cái điếu văn cho sinh động thôi!
Lễ Khai giảng một khóa bồi dưỡng quản lý nhà nước Chương trình Chuyên viên cao cấp
Trước đây Chuyên viên cao cấp là đồ xa sỉ quý hiếm vì nó ít và có phần "xịn" hơn bây giờ nhiều. Cả năm Học viện mới hân hoan đón lớp học viên cao cấp (theo lời thầy giáo), giờ thì một năm rất nhiều lớp, nhiều vùng miền, khu vực các thầy cũng không thể nhớ hết. Giảng đường học viện sử dụng hết công suất. Chả thế mà cách đây vài năm cán bộ, giáo viên của Học viện mới có vài trăm thì nay đã ngót một ngàn, cũng theo lời thầy.
Cũng bởi mở nhiều nên tiêu chí bị hạ bớt xuống thảm hại, các Trưởng phòng và tương đương cũng được cử đi, trẻ nhất chỉ có 38 tuổi, có anh lương còn chưa quá 4 phẩy. Cơ chế ở đây cũng rất linh hoạt bởi nuôi sống cả bộ máy khổng lồ ấy mà chờ bao cấp thì chắc đóng cửa trường.
Tiêu chí đã vậy thì chất lượng thế nào? Chuyên viên cao cấp và chuyên viên chính cũng không khác nhau về "chất" là bao, có chăng là khác nhau về thang bậc lương vốn đã vô vàn sự bất cập khập khiễng vô lý, vô lối. Cũng vì lẽ đó mà đi học và đi thi CVCC cũng chỉ là bát cơm manh áo mà thôi! Hay là đi học lơ là nên không nhận thức được gì nhỉ, he he
Trước đây chương trình học 3 tháng nay cắt đi chỉ còn gần 2 tháng trong đó gần một tháng học và đi thực tế thời gian còn lại viết một đề án tối thiểu 15 trang và không quá 35 trang nói chung 20 trang, bìa cứng nhũ vàng là đẹp. Làm hai bài kiểm tra chưa thấy ai trượt mặc dù cũng dọc phách cũng chấm thi, cũng đề cương câu hỏi cũng niêm phong đề với lời dặn học viên không được sử dụng tài liệu và cán bộ coi thi không được giải thích gì thêm, he he
Khổ cho các học viên già vốn làm sếp chỉ quen chỉ tay và... ký giờ ngồi viết 3 tiếng vật vã khổ sở, mà không làm bài kiểm tra thì không được. Thời tiết Hà Nội tháng 6 ngột ngạt, phòng không có điều hòa, nhiều cha béo quá sống trong nhà vệ sinh nhiều hơn vì chốc chốc lại phải vào dội nước cho mát. Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò, câu này luôn đúng với bọn học sinh. Tay nào cũng mong thầy ốm, thầy cho nghỉ sớm; chắc cũng khác lũ sinh viên trẻ nên giờ nào thầy cũng hứa trước là cho nghỉ sớm hoặc đại loại là người nói phải nghỉ trước khi người nghe dừng việc nghe, rồi thì nghỉ sớm cũng là văn hóa v v và v v Ai đời sàn nhà lát gỗ ép công nghiệp mà các bố đổ cả xô nước ra cho mát, trước khi đi ăn cơm còn đổ thêm nửa xô cho chắc ăn! Gỗ ép gặp nước nở ra như bánh đa ngâm nước.
Sản phẩm của những "ca - ve" già sau 2 tháng dùi mài...
Dù chỉ là hai tháng không đầy đủ chưa biết hết mặt nhau nhưng lớp nào cũng làm kỷ yếu vì là thông lệ và có người làm cho trọn gói cho rồi!
Vui nhất là vụ đi thực tế vì trong chương trình nó thế! he he
Tay nào cũng sợ lớp về địa phương mình thực tế vì lớp nào cũng đông như quân Nguyên, tiếp ăn đã đủ như tằm ăn rỗi. Nhiều anh có chức sắc làm đến phó tỉnh trưởng cũng hốt. Cái loại trưởng phó ngành thì không nói vì nó cũng sợ nhưng những tay trong diện hạ tiêu chí thì hết hơi vì không khéo tỉnh nghĩ "rước" về nên sợ ăn chửi, he he, khổ thật
Nhưng rồi vẫn phải đi và cũng nhiều người thích đi vì cũng lắm anh ở nhà công việc căng thẳng đi thế khác gì đi chơi!
Vui nhất vẫn là tụ tập tán gẫu, bia bọt trêu đùa như bọn sinh viên mới nhập trường. Đi học hai tháng, bọn già được trẻ lại đến mấy tuổi.
Một lớp học lên đường đi thực tế
Hà Nội mùa hè 2012 - Nghe kể lại
Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012
12C ngày ấy - bây giờ
Mới có 25 năm
mà cũng nhiều đổi khác, vật đổi sao rời. Hôm trước bọn bạn tổ chức kỷ
niệm 25 năm ngày ra trường tiếc quá Y không về được. Ngày thằng Mạnh cho
con gái đi lấy chồng ở Bắc Giang, Y cũng chỉ có lời chúc phúc. Thế mới
thấm thân phận của kẻ tha phương cầu thực
Trường học tranh tre nứa lá và lũ bạn ngày xưa
Trường học và lũ bạn ngày nay, nhà tranh tre nứa lá đã không còn, nhà cửa khang trang hơn còn Y và bạn bè thì ngày càng ọp ẹp.
Trường học tranh tre nứa lá và lũ bạn ngày xưa
Trường học và lũ bạn ngày nay, nhà tranh tre nứa lá đã không còn, nhà cửa khang trang hơn còn Y và bạn bè thì ngày càng ọp ẹp.
Nhiều
tên đã già và nhăm nhe lên chức ông, bà. Buồn cười nhìn cái ảnh họp lớp
nhiều đứa trông lam lũ tóc điểm bạc, có đứa hói nửa đầu, nhưng tính
cách vẫn như xưa vẫn mày tao chi tớ...Nhiều năm không gặp lại nên không
thể nhận ra đứa nào với đứa nào cả. Đứa nào trông cũng quen quen mà hình
như cũng chưa gặp bao giờ...
Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012
Bãi Cháy vào thu...(Bai Chay in the autumn ...)
Bãi Cháy vốn nổi tiếng từ thời bao cấp, những
thập niên gần đây Bãi Cháy mất dần sự hấp dẫn so với các bãi biển khác
mặc dù vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới, rồi thì kỳ quan mới,
Tuần Châu đảo ngọc...v v và v v cũng không làm cho Bãi Cháy hấp dẫn
hơn.
Bởi bãi tắm bẩn quá, nhiều rác do con người xả ra, nước thải chảy xuống biển đen ngòm. Biển đục và bẩn, ra khoảng gần 1 m sâu đã không nhìn thấy đáy. Bởi là vịnh nên không có sóng hoặc sóng bé quá, tắm an toàn nhưng cũng kém gây hứng thú và cảm giác mạnh về biển cả.
Lập thu nhưng bãi biển đã vắng hoe, khách nước ngoài cũng ít.
Khách sạn èo uột dăm vị khách lẻ, vài hội thảo giải ngân cho kịp kế hoạch
Dịch vụ vẫn thế, mời mọc chèo kéo và không an tâm về giá cả, chất lượng. Y không ra vịnh nên không biết các dịch vụ như thế nào...
Những thực khách sành ăn không chọn các nhà hàng lớn ở Hạ Long hay Bãi Cháy mà đi quá vài chục km xuống Cẩm Phả đi vào ngõ ngách rồi đi sâu tiếp con đường độc đạo ra bờ biển, cây cối rậm rạp, đường mấp mô lầy lội dẫn ra sát cửa biển lên một chiếc bè đơn sơ nhưng hải sản thì tươi sống rất ngon, có những món lần đầu thưởng thức như con giuốc, gỏi tôm rảo, ốc...mà nghe dân bản địa giới thiệu đã thấy thèm...chẹp chẹp
Chiếc cầu tầu vẫn như 30 năm trước Y có dịp đặt chân đến khi đi trại hè cháu ngoan Bác Hồ
Một "quán bè" ẩn khuất giữa núi rừng nơi cửa biển Cẩm Phả
Về qua chợ Tiên Yên mua chút hải sản tươi sống ngon và rẻ hơn ở Bãi Cháy, Hạ Long
(Chụp từ tầng 15 khách sạn Hạ Long Dream ngày 20 tháng 9 năm 2012)
Bởi bãi tắm bẩn quá, nhiều rác do con người xả ra, nước thải chảy xuống biển đen ngòm. Biển đục và bẩn, ra khoảng gần 1 m sâu đã không nhìn thấy đáy. Bởi là vịnh nên không có sóng hoặc sóng bé quá, tắm an toàn nhưng cũng kém gây hứng thú và cảm giác mạnh về biển cả.
Lập thu nhưng bãi biển đã vắng hoe, khách nước ngoài cũng ít.
Khách sạn èo uột dăm vị khách lẻ, vài hội thảo giải ngân cho kịp kế hoạch
Dịch vụ vẫn thế, mời mọc chèo kéo và không an tâm về giá cả, chất lượng. Y không ra vịnh nên không biết các dịch vụ như thế nào...
Những thực khách sành ăn không chọn các nhà hàng lớn ở Hạ Long hay Bãi Cháy mà đi quá vài chục km xuống Cẩm Phả đi vào ngõ ngách rồi đi sâu tiếp con đường độc đạo ra bờ biển, cây cối rậm rạp, đường mấp mô lầy lội dẫn ra sát cửa biển lên một chiếc bè đơn sơ nhưng hải sản thì tươi sống rất ngon, có những món lần đầu thưởng thức như con giuốc, gỏi tôm rảo, ốc...mà nghe dân bản địa giới thiệu đã thấy thèm...chẹp chẹp
Chiếc cầu tầu vẫn như 30 năm trước Y có dịp đặt chân đến khi đi trại hè cháu ngoan Bác Hồ
Một "quán bè" ẩn khuất giữa núi rừng nơi cửa biển Cẩm Phả
Về qua chợ Tiên Yên mua chút hải sản tươi sống ngon và rẻ hơn ở Bãi Cháy, Hạ Long
(Chụp từ tầng 15 khách sạn Hạ Long Dream ngày 20 tháng 9 năm 2012)
Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012
MÓN QUÀ ĐẶC BIỆT CỦA MỘT NGƯỜI BẠN...(special gift of a friend)
Một
người bạn blog đã vẽ tặng bức hình theo nguyện vọng của Y qua một bức
ảnh trên blog của Y. Xin cảm ơn người bạn đã dày công họa cho Y, và Y
lại có cái để khoe khoang với bạn bè. Dưới đây là bức họa và bức ảnh
kiểm chứng, xin giới thiệu với tất cả mọi người.
Bức họa của bạn Kian tặng Y
Bức ảnh gốc ở entry "...rồi đến Hàng Châu" http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591294/category/Trung+Qu%E1%BB%91c
Link sang nhà bạn ấy: http://blog.yahoo.com/_THZI5BMVVJO4S53VPG5ZQYQ7GM/articles/862328/index
Bức họa của bạn Kian tặng Y
Bức ảnh gốc ở entry "...rồi đến Hàng Châu" http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591294/category/Trung+Qu%E1%BB%91c
Link sang nhà bạn ấy: http://blog.yahoo.com/_THZI5BMVVJO4S53VPG5ZQYQ7GM/articles/862328/index
Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012
ÔNG "HÀN THUYÊN" LÀNG CHIỀNG
Chả
biết ông người ở đâu, có lẽ cũng không phải là người làng Chiềng. Từ
lúc còn nhỏ Y đã thấy ông ở làng, ai cũng gọi ông là ông Thuyên hay là
ông "Hàn Thuyên" mà cũng chả biết ông họ gì, họ hàng thân thích với ai ở
cái làng con rùa này. Ông hay mặc quần soóc, áo trắng nhờ nhờ pha màu
cháo lòng, mái tóc trắng như cước dài và bồng trông rất phiêu!. Thỉnh
thoảng ông đội mũ phớt chống gậy ba - toong tự chế đi qua làng lên phố
huyện trông rất oách! ít nhất là trong mắt lũ con nít như bọn Y. Ông học
trường tây thì phải nên có biết chút tiếng Pháp, mỗi khi qua làng ông
hay nói vài câu mà bọn Y chả hiểu gì chỉ đồng thanh chào ông ran lên:
U - a - lê - vu!, đứa nào còn bé 2, 3 tuổi nói còn ngọng thì "Ba - vu, ba - vu"!, vui đáo để. Nhưng ông rất hiền chả dọa mắng đứa nào cả. Ông Thuyên rất thích nói chuyện với mấy anh em nhà Y bởi bố Y làm giáo học, mấy đứa nhà Y được thừa hưởng gen ấy và có nghe lỏm của bố Y mấy chuyện nhân tình thế thái, đem tâu lại với ông nên ông rất quý và hay thưởng cho mấy cái xoa đầu!
Nhà ông ở bờ suối đoạn giữa vực Là Lìu và vực Chảy Quanh (Hay Chẻ Quanh), gọi là nhà chứ thực ra nó chỉ là cái lều nhỏ lợp cỏ tranh rộng vừa cái giường nằm và một ngăn nhỏ làm bếp đặt ba ông đầu rau có khi ngày chỉ đỏ lửa một lần, đầu nhà có lối đi xuống suối ông bắc một cái cầu để múc nước ăn và tắm giặt, rửa rau...Lúc ấy nước suối còn nhiều và rất sạch, trong vắt, chưa cạn và bẩn thỉu như bây giờ toàn túi nilon và kotex đã qua sử dụng.
Cái giếng mấy trăm năm tuổi của Làng Chiềng đã được xây lại nên không còn mang vẻ cổ kính nữa
Ông Thuyên hay đi câu và ông rất sát cá nên hay câu được cá trê, cá bò, trạch chấu và cả ba ba nữa, những con cá bò vàng hườm, béo múp hàng nửa cân. Ông cho nấu lẫn với hạt bo bo, hoặc gạo kho thành món cháo hay cơm nát với cá mà ông hay gọi là súp, đi qua đầu chòi cũng thấy thơm lừng. Có lẽ do đói mà bọn Y thấy thơm chứ gạo kho thì thơm cái quái gì. À nói thêm, hình như ông Thuyên có công với cách mạng hay là lính Điện Biên Phủ về bị mất sức hay thương binh gì đó nên ông mới được ăn gạo sổ, chảng biết cơn gió nào đưa ông đến với làng Chiềng. Rồi một năm nọ, trời làm mưa gió, nửa đêm nước suối lên cao mà ông Thuyên không biết, tràn qua chiếc chõng tre, ông Thuyên suýt bị Hà Bá bắt mất. Sau đó ông ốm nặng rồi được nhà nước đưa đi điều dưỡng ở tận thành phố Thái Nguyên. Từ đó ông không bao giờ về làng Chiềng nữa vì ông không có ai thân thích ở làng Chiềng. Căn lều cỏ của ông cũng bị lũ cuốn trôi tự khi nào. Ngày ấy có lẽ ông cũng ngoài 70 tuổi rồi.
Hết cấp 3, Y rời làng Chiềng mon men lên thành phố học đại học, có lần tình cờ gặp ông Thuyên vẫn quần soóc với áo cháo lòng, có thêm cặp kính trắng vác cần câu đi ngoài phố, Y lễ phép chào và ông giữ lại nói chuyện rất lâu về làng Chiềng với những ký ức rất đẹp của những năm tháng cuối đời ở làng quê miền núi yên bình.
Rồi ông Thuyên mất lúc nào Y cũng không hay, làng Chiềng cũng không ai biết, chỉ còn lại nhưng câu chuyện về ông Thuyên mà bọn trẻ con như bọn Y thời ấy là ai cũng nhớ. Thấm thoắt những đứa trẻ con hồi ấy giờ đã có đứa nhăm nhe lên chức ông, bà...
Làng Chiềng, mùa hạ 2012
Xem thêm: Văn hóa dân gian Làng Chiềng Ở ĐÂY
U - a - lê - vu!, đứa nào còn bé 2, 3 tuổi nói còn ngọng thì "Ba - vu, ba - vu"!, vui đáo để. Nhưng ông rất hiền chả dọa mắng đứa nào cả. Ông Thuyên rất thích nói chuyện với mấy anh em nhà Y bởi bố Y làm giáo học, mấy đứa nhà Y được thừa hưởng gen ấy và có nghe lỏm của bố Y mấy chuyện nhân tình thế thái, đem tâu lại với ông nên ông rất quý và hay thưởng cho mấy cái xoa đầu!
Nhà ông ở bờ suối đoạn giữa vực Là Lìu và vực Chảy Quanh (Hay Chẻ Quanh), gọi là nhà chứ thực ra nó chỉ là cái lều nhỏ lợp cỏ tranh rộng vừa cái giường nằm và một ngăn nhỏ làm bếp đặt ba ông đầu rau có khi ngày chỉ đỏ lửa một lần, đầu nhà có lối đi xuống suối ông bắc một cái cầu để múc nước ăn và tắm giặt, rửa rau...Lúc ấy nước suối còn nhiều và rất sạch, trong vắt, chưa cạn và bẩn thỉu như bây giờ toàn túi nilon và kotex đã qua sử dụng.
Cái giếng mấy trăm năm tuổi của Làng Chiềng đã được xây lại nên không còn mang vẻ cổ kính nữa
Ông Thuyên hay đi câu và ông rất sát cá nên hay câu được cá trê, cá bò, trạch chấu và cả ba ba nữa, những con cá bò vàng hườm, béo múp hàng nửa cân. Ông cho nấu lẫn với hạt bo bo, hoặc gạo kho thành món cháo hay cơm nát với cá mà ông hay gọi là súp, đi qua đầu chòi cũng thấy thơm lừng. Có lẽ do đói mà bọn Y thấy thơm chứ gạo kho thì thơm cái quái gì. À nói thêm, hình như ông Thuyên có công với cách mạng hay là lính Điện Biên Phủ về bị mất sức hay thương binh gì đó nên ông mới được ăn gạo sổ, chảng biết cơn gió nào đưa ông đến với làng Chiềng. Rồi một năm nọ, trời làm mưa gió, nửa đêm nước suối lên cao mà ông Thuyên không biết, tràn qua chiếc chõng tre, ông Thuyên suýt bị Hà Bá bắt mất. Sau đó ông ốm nặng rồi được nhà nước đưa đi điều dưỡng ở tận thành phố Thái Nguyên. Từ đó ông không bao giờ về làng Chiềng nữa vì ông không có ai thân thích ở làng Chiềng. Căn lều cỏ của ông cũng bị lũ cuốn trôi tự khi nào. Ngày ấy có lẽ ông cũng ngoài 70 tuổi rồi.
Hết cấp 3, Y rời làng Chiềng mon men lên thành phố học đại học, có lần tình cờ gặp ông Thuyên vẫn quần soóc với áo cháo lòng, có thêm cặp kính trắng vác cần câu đi ngoài phố, Y lễ phép chào và ông giữ lại nói chuyện rất lâu về làng Chiềng với những ký ức rất đẹp của những năm tháng cuối đời ở làng quê miền núi yên bình.
Rồi ông Thuyên mất lúc nào Y cũng không hay, làng Chiềng cũng không ai biết, chỉ còn lại nhưng câu chuyện về ông Thuyên mà bọn trẻ con như bọn Y thời ấy là ai cũng nhớ. Thấm thoắt những đứa trẻ con hồi ấy giờ đã có đứa nhăm nhe lên chức ông, bà...
Xem thêm: Văn hóa dân gian Làng Chiềng Ở ĐÂY
Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012
Đất Tổ ngày không giỗ
Mấy ngày nóng nực, khác với mọi người lao ra biển tránh nóng, Y theo
chúng bạn hành hương về Đất Tổ, nhớ về cội nguồn và những mong Hùng
Vương ban phúc!. Trời nóng nực nhưng được cái đường vào Đền Hùng vắng
lặng, phong cảnh có nhiều thay đổi so với lần trước Y đến cũng khá lâu
cách đây. Đường vào sạch sẽ, cây cối um tùm, dịch vụ vẫn đông nhưng
không ồn ào chèo kéo gây khó chịu. Các con cháu ngàn đời của Vua Hùng
thong dong thả bộ từng bước một chậm rãi lên Đền, làm lễ trật tự trang
nghiêm tĩnh tâm không chen lấn xô bồ như vào dịp lễ hội thường thấy.
Trách sao được, có đông mới nên hội chứ, các cụ đã chả nói: "vui xem
hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội, bối rối xem đám ma..." là gì.
Viếng Vua Hùng xong, Y đi tham quan Bảo tàng Hùng Vương ở thành phố Việt Trì vốn là Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, khác với Bảo tàng Hùng Vương cùng tên ở ngay chân đường lên đền. Là những vị khách hơi đặc biệt (Có lẽ cùng nghề sử chăng) nên cả lũ được Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Đức Tuấn đích thân hướng dẫn và đưa xuống kho xem và sờ một số bảo vật quốc gia, điều mà ngay khi vào bảo tàng người ta hay bắt gặp cảnh báo: "KHÔNG SỜ VÀO HIỆN VẬT - DON'T TOUCH EXHIBIT". Là bảo tàng tỉnh nhưng được đầu tư khá lớn và cách trưng bày tạm coi là mới lạ so với cách trưng bầy truyền thống của các bảo tàng địa phương là gian khánh tiết, tự nhiên, tiền sơ sử, thời kỳ cách mạng và hiện nay, chấm hết!
Được cái khuôn viên rộng rãi dù việc trưng bày ngoài trời khá khiêm tốn trừ 2 chiếc máy bay chiến đấu chắc là MIC của Liên Xô và một chiếc xe tăng cổ lỗ. Mấy tay đi cùng chép miệng:khuôn viên này mà ở Hà Nội cho thuê trông xe thì bộn tiền, nghe sặc mùi tiền!
Dưới chân Đền
Dưới Kho Bảo tàng, nơi chỉ dành cho các nhân viên các vị khách bất trị giành nhau xem bảo vật quốc gia, ồn ào náo nhiệt xen lẫn tò mò, thích thú
Rời Bảo tàng cả bọn lại hò nhau chạy lên Tam Đảo. Thị trấn này mây núi kỳ thú nhưng chỉ có rặt nhà nghỉ, nhà hàng, nơi tránh nóng đùng nghĩa chứ không đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như ở Sa Pa, Một ngày đêm ở đó chúng tôi không hề gặp Tây ba - lô mà toàn ta ba - lô. Giá phòng cũng không hề rẻ: 600k cho một phòng double ở Green World Hotel không vào sao nào nhưng ở tạm được, tầng 8 mountain view không cần điều hòa mà cũng không cần mắc màn vì muỗi cũng hiếm thấy. Chợ Tam Đảo rất nhỏ, lèo tèo bán vài thứ đồ bản địa như mấy thứ thuốc lá cây dâm dương hoắc, trà thanh nhiệt, mít, dứa, chuối, ngọn su su treo toòng teng trên xe máy chắc là chở từ chân núi lên và các loại hàng tàu đâu cũng có. Nhà thờ mới xây tháp chuông là bản pho-tô của nhà thờ đá Sa Pa, vắng hoe vì không có giáo dân, nghe đâu mới đòi lại từ chính quyền.
Tam Đảo khác chỗ khác là bán các tiêu bản bướm rừng rất độc đáo đủ các màu sắc, kích cỡ, các nơi du lịch khác nghe nói cũng có nhiều bướm nhưng không phải bướm rừng. Từ Vĩnh Yên đi 25km là đến thị trấn Tam Đảo, đường lên quanh co, cây cối rậm rạp, cũng có cảm giác hơi sợ với ai lần đầu lên đèo bởi nếu mất phanh thì không biết đâu là đáy vực.
Một góc thị trấn Tam Đảo nhìn từ Green World Hotel
Mây núi Tam Đảo
Hát xoan Phú Thọ, di sản văn hóa phi vật thể mới được UNESCO công nhận
Viếng Vua Hùng xong, Y đi tham quan Bảo tàng Hùng Vương ở thành phố Việt Trì vốn là Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, khác với Bảo tàng Hùng Vương cùng tên ở ngay chân đường lên đền. Là những vị khách hơi đặc biệt (Có lẽ cùng nghề sử chăng) nên cả lũ được Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Đức Tuấn đích thân hướng dẫn và đưa xuống kho xem và sờ một số bảo vật quốc gia, điều mà ngay khi vào bảo tàng người ta hay bắt gặp cảnh báo: "KHÔNG SỜ VÀO HIỆN VẬT - DON'T TOUCH EXHIBIT". Là bảo tàng tỉnh nhưng được đầu tư khá lớn và cách trưng bày tạm coi là mới lạ so với cách trưng bầy truyền thống của các bảo tàng địa phương là gian khánh tiết, tự nhiên, tiền sơ sử, thời kỳ cách mạng và hiện nay, chấm hết!
Được cái khuôn viên rộng rãi dù việc trưng bày ngoài trời khá khiêm tốn trừ 2 chiếc máy bay chiến đấu chắc là MIC của Liên Xô và một chiếc xe tăng cổ lỗ. Mấy tay đi cùng chép miệng:khuôn viên này mà ở Hà Nội cho thuê trông xe thì bộn tiền, nghe sặc mùi tiền!
Dưới chân Đền
Dưới Kho Bảo tàng, nơi chỉ dành cho các nhân viên các vị khách bất trị giành nhau xem bảo vật quốc gia, ồn ào náo nhiệt xen lẫn tò mò, thích thú
Rời Bảo tàng cả bọn lại hò nhau chạy lên Tam Đảo. Thị trấn này mây núi kỳ thú nhưng chỉ có rặt nhà nghỉ, nhà hàng, nơi tránh nóng đùng nghĩa chứ không đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như ở Sa Pa, Một ngày đêm ở đó chúng tôi không hề gặp Tây ba - lô mà toàn ta ba - lô. Giá phòng cũng không hề rẻ: 600k cho một phòng double ở Green World Hotel không vào sao nào nhưng ở tạm được, tầng 8 mountain view không cần điều hòa mà cũng không cần mắc màn vì muỗi cũng hiếm thấy. Chợ Tam Đảo rất nhỏ, lèo tèo bán vài thứ đồ bản địa như mấy thứ thuốc lá cây dâm dương hoắc, trà thanh nhiệt, mít, dứa, chuối, ngọn su su treo toòng teng trên xe máy chắc là chở từ chân núi lên và các loại hàng tàu đâu cũng có. Nhà thờ mới xây tháp chuông là bản pho-tô của nhà thờ đá Sa Pa, vắng hoe vì không có giáo dân, nghe đâu mới đòi lại từ chính quyền.
Tam Đảo khác chỗ khác là bán các tiêu bản bướm rừng rất độc đáo đủ các màu sắc, kích cỡ, các nơi du lịch khác nghe nói cũng có nhiều bướm nhưng không phải bướm rừng. Từ Vĩnh Yên đi 25km là đến thị trấn Tam Đảo, đường lên quanh co, cây cối rậm rạp, cũng có cảm giác hơi sợ với ai lần đầu lên đèo bởi nếu mất phanh thì không biết đâu là đáy vực.
Một góc thị trấn Tam Đảo nhìn từ Green World Hotel
Mây núi Tam Đảo
Hát xoan Phú Thọ, di sản văn hóa phi vật thể mới được UNESCO công nhận
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)