Người theo dõi

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

ÔNG "HÀN THUYÊN" LÀNG CHIỀNG

Chả biết ông người ở đâu, có lẽ cũng không phải là người làng Chiềng. Từ lúc còn nhỏ Y đã thấy ông ở làng, ai cũng gọi ông là ông Thuyên hay là ông "Hàn Thuyên" mà cũng chả biết ông họ gì, họ hàng thân thích với ai ở cái làng con rùa này. Ông hay mặc quần soóc, áo trắng nhờ nhờ pha màu cháo lòng, mái tóc trắng như cước dài và bồng trông rất phiêu!. Thỉnh thoảng ông đội mũ phớt chống gậy ba - toong tự chế đi qua làng lên phố huyện trông rất oách! ít nhất là trong mắt lũ con nít như bọn Y. Ông học trường tây thì phải nên có biết chút tiếng Pháp, mỗi khi qua làng ông hay nói vài câu mà bọn Y chả hiểu gì chỉ đồng thanh chào ông ran lên:
U - a - lê - vu!, đứa nào còn bé 2, 3 tuổi nói còn ngọng thì "Ba - vu, ba - vu"!, vui đáo để. Nhưng ông rất hiền chả dọa mắng đứa nào cả. Ông Thuyên rất thích nói chuyện với mấy anh em nhà Y bởi bố Y làm giáo học, mấy đứa nhà Y được thừa hưởng gen ấy và có nghe lỏm của bố Y mấy chuyện nhân tình thế thái, đem tâu lại với ông nên ông rất quý và hay thưởng cho mấy cái xoa đầu!
Nhà ông ở bờ suối đoạn giữa vực Là Lìu và vực Chảy Quanh (Hay Chẻ Quanh), gọi là nhà chứ thực ra nó chỉ là cái lều nhỏ lợp cỏ tranh rộng vừa cái giường nằm và một ngăn nhỏ làm bếp đặt ba ông đầu rau có khi ngày chỉ đỏ lửa một lần, đầu nhà có lối đi xuống suối ông bắc một cái cầu để múc nước ăn và tắm giặt, rửa rau...Lúc ấy nước suối còn nhiều và rất sạch, trong vắt, chưa cạn và bẩn thỉu như bây giờ toàn túi nilon và kotex đã qua sử dụng.

Cái giếng mấy trăm năm tuổi của Làng Chiềng đã được xây lại nên không còn mang vẻ cổ kính nữa


Ông Thuyên hay đi câu và ông rất sát cá nên hay câu được cá trê, cá bò, trạch chấu và cả ba ba nữa, những con cá bò vàng hườm, béo múp hàng nửa cân. Ông cho nấu lẫn với hạt bo bo, hoặc gạo kho thành món cháo hay cơm nát với cá mà ông hay gọi là súp, đi qua đầu chòi cũng thấy thơm lừng. Có lẽ do đói mà bọn Y thấy thơm chứ gạo kho thì thơm cái quái gì. À nói thêm, hình như ông Thuyên có công với cách mạng hay là lính Điện Biên Phủ về bị mất sức hay thương binh gì đó nên ông mới được ăn gạo sổ, chảng biết cơn gió nào đưa ông đến với làng Chiềng. Rồi một năm nọ, trời làm mưa gió, nửa đêm nước suối lên cao mà ông Thuyên không biết, tràn qua chiếc chõng tre, ông Thuyên suýt bị Hà Bá bắt mất. Sau đó ông ốm nặng rồi được nhà nước đưa đi điều dưỡng ở tận thành phố Thái Nguyên. Từ đó ông không bao giờ về làng Chiềng nữa vì ông không có ai thân thích ở làng Chiềng. Căn lều cỏ của ông cũng bị lũ cuốn trôi tự khi nào. Ngày ấy có lẽ ông cũng ngoài 70 tuổi rồi.
Hết cấp 3, Y rời làng Chiềng mon men lên thành phố học đại học, có lần tình cờ gặp ông Thuyên vẫn quần soóc với áo cháo lòng, có thêm cặp kính trắng vác cần câu đi ngoài phố, Y lễ phép chào và ông giữ lại nói chuyện rất lâu về làng Chiềng với những ký ức rất đẹp của những năm tháng cuối đời ở làng quê miền núi yên bình.
Rồi ông Thuyên mất lúc nào Y cũng không hay, làng Chiềng cũng không ai biết, chỉ còn lại nhưng câu chuyện về ông Thuyên mà bọn trẻ con như bọn Y thời ấy là ai cũng nhớ. Thấm thoắt những đứa trẻ con hồi ấy giờ đã có đứa nhăm nhe lên chức ông, bà...
      Làng Chiềng, mùa hạ 2012

 Xem thêm: Văn hóa dân gian Làng Chiềng Ở ĐÂY

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Đất Tổ ngày không giỗ

Mấy ngày nóng nực, khác với mọi người lao ra biển tránh nóng, Y theo chúng bạn hành hương về Đất Tổ, nhớ về cội nguồn và những mong Hùng Vương ban phúc!. Trời nóng nực nhưng được cái đường vào Đền Hùng vắng lặng, phong cảnh có nhiều thay đổi so với lần trước Y đến cũng khá lâu cách đây. Đường vào sạch sẽ, cây cối um tùm, dịch vụ vẫn đông nhưng không ồn ào chèo kéo gây khó chịu. Các con cháu ngàn đời của Vua Hùng thong dong thả bộ từng bước một chậm rãi lên Đền, làm lễ trật tự trang nghiêm tĩnh tâm không chen lấn xô bồ như vào dịp lễ hội thường thấy. Trách sao được, có đông mới nên hội chứ, các cụ đã chả nói: "vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội, bối rối xem đám ma..." là gì.
Viếng Vua Hùng xong, Y đi tham quan Bảo tàng Hùng Vương ở thành phố Việt Trì vốn là Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, khác với Bảo tàng Hùng Vương cùng tên ở ngay chân đường lên đền. Là những vị khách hơi đặc biệt (Có lẽ cùng nghề sử chăng) nên cả lũ được Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Đức Tuấn đích thân hướng dẫn và đưa xuống kho xem và sờ một số bảo vật quốc gia, điều mà ngay khi vào bảo tàng người ta hay bắt gặp cảnh báo: "KHÔNG SỜ VÀO HIỆN VẬT - DON'T TOUCH EXHIBIT". Là bảo tàng tỉnh nhưng được đầu tư khá lớn và cách trưng bày tạm coi là mới lạ so với cách trưng bầy truyền thống của các bảo tàng địa phương là gian khánh tiết, tự nhiên, tiền sơ sử, thời kỳ cách mạng và hiện nay, chấm hết!
Được cái khuôn viên rộng rãi dù việc trưng bày ngoài trời khá khiêm tốn trừ 2 chiếc máy bay chiến đấu chắc là MIC của Liên Xô và một chiếc xe tăng cổ lỗ. Mấy tay đi cùng chép miệng:khuôn viên này mà ở Hà Nội cho thuê trông xe thì bộn tiền, nghe sặc mùi tiền!

Dưới chân Đền




Đường lên Đền Hùng rất sạch đẹp


Dưới Kho Bảo tàng, nơi chỉ dành cho các nhân viên các vị khách bất trị giành nhau xem bảo vật quốc gia, ồn ào náo nhiệt xen lẫn tò mò, thích thú



Rời Bảo tàng cả bọn lại hò nhau chạy lên Tam Đảo. Thị trấn này mây núi kỳ thú nhưng chỉ có rặt nhà nghỉ, nhà hàng, nơi tránh nóng đùng nghĩa chứ không đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như ở Sa Pa, Một ngày đêm ở đó chúng tôi không hề gặp Tây ba - lô mà toàn ta ba - lô. Giá phòng cũng không hề rẻ: 600k cho một phòng double ở Green World Hotel không vào sao nào nhưng ở tạm được, tầng 8 mountain view không cần điều hòa mà cũng không cần mắc màn vì muỗi cũng hiếm thấy. Chợ Tam Đảo rất nhỏ, lèo tèo bán vài thứ đồ bản địa như mấy thứ thuốc lá cây dâm dương hoắc, trà thanh nhiệt, mít, dứa, chuối, ngọn su su treo toòng teng trên xe máy chắc là chở từ chân núi lên và các loại hàng tàu đâu cũng có. Nhà thờ mới xây tháp chuông là bản pho-tô của nhà thờ đá Sa Pa, vắng hoe vì không có giáo dân, nghe đâu mới đòi lại từ chính quyền.
Tam Đảo khác chỗ khác là bán các tiêu bản bướm rừng rất độc đáo đủ các màu sắc, kích cỡ, các nơi du lịch khác nghe nói cũng có nhiều bướm nhưng không phải bướm rừng. Từ Vĩnh Yên đi 25km là đến thị trấn Tam Đảo, đường lên quanh co, cây cối rậm rạp, cũng có cảm giác hơi sợ với ai lần đầu lên đèo bởi nếu mất phanh thì không biết đâu là đáy vực.

Một góc thị trấn Tam Đảo nhìn từ Green World Hotel


Mây núi Tam Đảo


Hát xoan Phú Thọ, di sản văn hóa phi vật thể mới được UNESCO công nhận



Một góc trưng bày bào tàng Hùng Vương

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

Student, now a new story told (Part III) Thời sinh viên, chuyện bây giờ mới kể

Lại nói chuyện giàu nghèo, hồi ấy cả lớp hình như đều nghèo kể cả bọn nhà quê hay thành phố không phân biệt làm ruộng hay công chức. Có lẽ thế mà lại hay và khoảng cách giàu nghèo trong lớp không có, dĩ nhiên là bất đắc dĩ chứ chắc chẳng ai muốn mình cứ mãi nghèo làm gì. Ở ký túc xá những đứa trong tỉnh mỗi tháng chỉ về nhà một lần vì có  về cũng không hòng xin thêm được gì từ cha mẹ nghèo khó, những đứa ở xa thì có khi cả học kỳ mới về, nghỉ hè chúng cũng chỉ mong có việc gì đó làm thêm nhưng hầu như không có vì kinh tế xã hội khi đó chưa phát triển và có nhu cầu lao động thời vụ như bây giờ. Mùa hè bọn sinh viên chủ yếu là quần âu áo sơ mi bỏ ngoài quần tuềnh toàng, dép lê hay tông lào, đầu tóc bù xù vì chúng tự cắt cho nhau hoặc để thật dài mới cắt cho đỡ tốn tiền. Thời đó nghề cắt tóc xa sút kinh khủng, nghề hàn dép lên ngôi. Cứ một miếng hàn dép nhựa Tiền phong là 200 đồng, miếng to và khó thì 500 đồng, đồ nghề chỉ là một lò than, vài miếng sắt mỏng, que hàn tự chế với mấy đôi dép rách ra đầu đường đông đúc là ngày có thể kiếm hàng chục ngàn, cả tháng thì cũng hơn lương Phó tiến sỹ dạy đại học ở Liên Xô về.
Các thầy cô giáo lúc đó đa phần là nghèo và rất nghèo, mình chỉ thấy thầy Bình dạy Tiếng Nga là có vẻ giàu vì thầy đi Liên Xô về có khi kiêm thêm nghề buôn tủ lạnh Xa - ra - tốp, bàn là hoa dâu, dây mai - so...Các thầy cô khác thì làm đậu, cấy lúa, nấu rượu, nuôi lơn...thôi thì đủ cả. Lúc rỗi rãi, lũ sinh viên khoa Sử hay đi hộ thầy Bảo dạy Cổ đại đóng gạch, vào lò gạch. Khi Y đã đi công tác tình cờ gặp thầy đến tỉnh để xem xét xác định mấy địa danh lịch sử ở biên giới phía Bắc như thôn Na Oa,cột đồng trụ... mà thời trai trẻ của thầy gánh nặng cơm áo gạo tiền nó níu chân thầy không đi được. Vẫn nhớ công trình nghiên cứu đầu đời của Y do thầy Bảo hướng dẫn là tìm hiểu lịch sử Việt Nam qua tác phẩm Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Gọi là "công trình" cho oai chứ thực chất chỉ là bài tập niên luận dài chừng 2 chục trang viết tay mà thôi. Phần thưởng là điểm 9 đúng nghĩa và được miễn thi cuối năm. Một bài tập sửa đi sửa lại nhiều lần và lên thư viện mài đít quần đến mòn nhưng không hề tốn với thầy chút nào dù chỉ là điếu thuốc Kỳ Hòa hay Du lịch đỏ vốn đang thịnh hành lúc đó. Dù vẫn nghèo xác xơ nhưng bữa cơm có thịt mời thầy cũng tự làm ấm lòng những thằng sinh viên mất nết của thầy năm nào. Chợt trộm nghĩ những khái niệm, địa danh ngày xưa thầy dạy làm mê hoặc bọn sinh viên khoa sử chúng tôi có khi cũng chỉ là ...giả định vậy.
Hồi ấy công nghệ quay cóp chưa tinh vi như bây giờ nhưng không thể nói là không ció mặc dù ít nghiêm trọng hơn bây giờ bởi sinh viên khi ấy coi thi lại, lưu ban, điểm kém là điều hiển nhiên như trời xanh vẫn thế không ghanh đua, không cần điểm cao chót vót, miễn là có chữ trong đầu. Hơn nữa các loại máy móc điện tử chưa có, máy phô-tô sản xuất phao chưa có, bọn chúng để nguyên cả cuốn vở dưới ngăn bàn, nếu cô giáo coi chặt thì chắc chắn không làm ăn gì được, có đứa xé vở. có đứa vẽ bản đồ, sơ đồ bằng bút không mực kẹp bên dưới nhưng nói chung chỉ là mẹo vặt không tinh vi và khó qua mặt thầy cô.
Nhóm sinh viên triết học xuất sắc năm học 1989-1990 chụp ảnh lưu niệm bên nhà thí nghiêm đang ngổn ngang vật liệu (Đố ai phát hiện ra Y là thằng nào trong ảnh?)


 

Trường Đại học Sư phạm có ít nhất là một nửa sinh viên nữ nên các trường đại học xung quanh như Nông nghiệp 3 Bắc Thái (nay là đại học nông lâm Thái Nguyên, Đại học Y Thái Nguyên, Đại học Công nghiệp ...vốn dương thịnh âm suy coi đây là một rừng hoa, có bổn phận phải đến chiêm ngưỡng chinh phục do đó cũng không thiếu những vụ ẩu đả lẫn nhau vì tranh giành bạn gái, có điều là hồi ấy chưa nhiều báo mạng, báo lá cải và blog như bây giờ nên chuyện ấy vẫn còn kín tiếng ở đâu biết đó. Quà tặng hồi ấy chỉ là những bó hoa một loại hái vội cho vào túi ni lon cắt thủng hai đầu, những bưu thiếp của Liên Xô bán đầy ngoài chợ rẻ như cho. Vào dịp 8/3 hay 20/11 thì có thêm món pháo rất vui tai,vài em cháy quần áo cũng vì pháo của các anh. Sinh viên ngày ấy có cái đồng hồ Liên Xô hay cái xe đạp Thống Nhất đã là cực kỳ sang trọng rồi, không như bây giờ nào son phấn hàng hiệu, túi xách, giầy dép, iphone, ipad, ipod..đắt tiền. Bởi thế bạn cùng phòng thông cảm với nhau hơn, thân thiện hơn, đoàn kết hơn ít chia đẳng cấp. Trong lớp, dù hiếm hoi nhưng thi thoảng cũng có chuyện cầm nhầm tiền của bạn vì tiền thì đồng nào chả giống đồng nào, he he. Y cũng đã được dự một cuộc kiểm điểm nảy lửa vì mất 200 ngàn, thời đó đủ mua 1 chiếc xe đạp Thống Nhất khung võng, ơn giời rồi cũng tìm ra, trả lại, xin lỗi nhau rồi xí xóa không có kỷ luật hay ẩu đả gì. Khổ chủ là Tiến Vòng quê Bình Liêu, thủ phạm thì xin được giữ kín sống để dạ, chết mang theo, he he.







Sinh viên cũng đủ trò nghịch dại tỷ như cái Thúy ở Hà Bắc thách nhau ăn hết 10 quả trứng vịt hay mấy thằng con trai rủ nhau xăm chữ bằng pin thối và nhựa xương rồng, Hùng "ngạnh" thì xăm đầu con hổ theo hình ở đuôi đèn pin Trung Quốc, Hoàng "tréc" xăm năm sinh, Tiến "vòng" xăm hình mặt trời, sau này đứa nào cũng hối hận nhưng không thể xóa nổi, cũng may không đứa nào bị nhiễm trùng...Hồi ấy không biết do ở bẩn hay do nước mà cả con trai con gái đều bị hắc lào. Trên ô thoáng cửa sổ đầy lọ thuốc bôi hắc lào D.E.F, A.S.A tối đến chúng vạch ra bôi cho nhau xót cháy da thịt , có đứa con gái không chịu được rú lên như "trái cắn gió" he he
Hồi Y mới nhập trường chỉ có quán cô Hồng giáo vụ khoa Lý vợ thầy Lâm Tiến bán ở nhà dưới khu tập thể, một cantin ở nhà ăn và một cantin ở cổng và cô Nga vợ thầy Long khoa toán bán nước buổi tối ở giữa khoa Hóa và khoa Sử, chấm hết, muốn mua gì thì ra chợ Đồng Quang hay bách hóa Mỏ Bạch. Thời buổi tiền không có, thị trường mang nặng tính bao cấp nên lũ sinh viên chủ yếu là ngủ và học, không có chơi bời hay hoạt động gì ra hồn như sau này. Giọng Y ồm ồm nên được giao làm phát thanh viên kiêm biên tập viên chương trình truyền thanh của Liên chi đoàn cũng nhiều sáng tạo ra phết, tỉ như đọc các mẩu chuyện vui tự sáng tác hay cập nhật thông tin tình hình chiến tranh I-Rắc, (nói cho oại vậy chức thực chất là đọc thời sự trang 4 báo Nhân dân (Hồi đó báo Nhân dân chỉ có 4 trang không màu) thế mà các con giời đã đói bụng lại hiếu kỳ há mồm ra nghe mỗi khi loa truyền thanh của trường trên đỉnh nóc nhà ăn rống lên ông ổng "Đây là chương trình truyền thanh của Liên chi đoàn khoa Lịch sử", he he, vui như phết!
Cứ mỗi cuối tuần Y lại rủ mấy thằng bạn ra nhà ông anh ở đầu ngã ba đê Mỏ Bạch đi trường Đại học Nông nghiệp để hộ ông ấy đào đất san đồi, mục đích là tiêu bớt sức lực và được ăn no, lại có rượu nhấm nháp hi hi, thật đấy. Chỗ ấy đầu hươu mõm nai nhưng nay thì tấc đất tấc vàng...âu cũng có công nhỏ bé của mấy thằng bạn Y. Công việc là xả đất đồi xuống rồi dùng xe ba gác chở ra đổ xuống chỗ ao trũng vốn bị khoét xuống đắp đê Mỏ Bạch, lâu dần đất nhà bác rộng ra, ao bị lấp đi vườn càng thêm rộng. Xin nói thêm, chủ nhà vốn là giáo viên cùng dạy và kết nghĩa với cụ thân sinh ra Y, còn gọi là cụ Tiêu, cụ thường tự hào là cùng tuổi với Xê - Au - Xê - Cu, lãnh tụ một nước xã hội chủ nghĩa, thời thế thay đổi, ông ta bị lật đổ và coi là nhà độc tài, sau bận đó không thấy cụ Tiêu khoe nữa, ngày Y đi công tác được hơn chục năm thì cụ mất.
Giáo viên trong trường thời ấy là những nhà sư phạm thực sự và đáng kính, bỏ qua một bên gánh nặng cơm áo gạo tiền, tình thầy trò vô cùng trong sáng và thầy hết lòng vì trò. Còn nhớ thầy Lâm Xuân Đình đi Liên Xô về người ta mua toàn bàn là, chậu nhôm, nồi áp xuất, áo bay còn thầy khi ra sân bay đón chỉ có 2 tạ sách Liên Xô! Bù lại giờ giảng của thầy thì dù là Sử dân tộc học nhưng vô cùng hấp dẫn Y còn nhớ đến tận bây giờ. Thầy Bèn khoa Văn số đào hoa nên có câu: "Lương Bèn nói, Lương Bèn nghe
Làm thân con gái chớ nghe Lương Bèn...
Thầy Vũ Châu Quán dạy Văn hay đến nỗi tả mùa thu học trò như ngửi thấy mùi cốm phảng phất...hay có lẽ cũng một phần do cái dạ dày bọn chúng đã to mà chẳng mấy khi được đổ đầy! Thầy Trần Ngọc dạy Khảo cổ học đại cương xong, bọn học trò khoa Sử đi đâu thấy bờ tre mảnh sành cũng nghĩ ngay đến nào là niên đại, đồng vị phóng xạ, đồng vị phấn hoa...tranh luận rôm rả và muốn lấy ngay cuốc xẻng mà đào cả mả bố người ta lên, và nhiều giai thoại nữa về các cô, các thầy yêu quý. Ngày ấy mới le lói đổi mới, cái chuẩn mực "Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa, Tổng hợp bỏ qua..." cũng bắt đầu lung lay, nhưng Sư phạm thì vẫn không được quan tâm nên lũ sinh viên như Y vẫn có tự trào: "Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm", "Thầy giáo - tháo giày đi chân đất" vì nghề này, trường này "Ăn như sư, ở như phạm". Các kỹ sư tâm hồn tương lai quả là nhếch nhác...
(Có thể còn nữa)

Quốc hội ra về

Thế là sau tròn một tháng vật lộn với cái nóng ngột ngạt nơi kinh thành, chiều nay Quốc hội cũng đã bế mạc. Một tháng Quốc hội làm gì các báo đã đưa dày đặc, thiết tưởng chả nên nói nữa, chỉ kể mấy chuyện bên lề qua ảnh.

Buổi bế mạc, nhiều đại biểu tranh thủ xin được chụp ảnh với TBT, cũng nguyên là người đứng đầu Quốc hội




Xe chờ đầy sân, nhiều ĐB ra xe riêng về tỉnh, nhiều ĐB xa ra thẳng sân bay sau một tháng xa nhà


Giờ giải lao cũng không náo nhiệt như mọi hôm


...và nhanh chóng "thu dọn chiến trường"



Quốc ca bế mạc vừa dứt, những đại biểu đầu tiên vội vã rời hội trường


Xe về nhà khách vắng tanh vì ĐB đã đi về thẳng nhà. 20 Tháng 10 gặp nhau nhé, lời chia tay đến hẹn lại lên với những cái bắt tay vội vã



Hội trường Ba Đình lịch sử, nay chỉ còn trong ký ức một thời...Rất may là Y cũng được vào ra nơi ấy  vài năm nên giờ có cơ hội kể lại

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2012

A27

A27 mới nghe qua như một phiên hiệu của ngành Công an nhưng đơn giản đó chỉ là tên một lớp học với thời gian 9 tháng 10 ngày, gần một thập niên đã trôi qua, 37 tên thì vẫn đủ nhưng cũng mỗi anh một phận. Trời chẳng cho ai hết cái gì và cũng chả lấy hết của ai cái gì, Y tin như vậy. Xứ Lạng lúc ấy có 3 người góp mặt gồm một ông ở Sở Đoan, một bà ở Nhà Dây thép và một tay Đổng lý Văn phòng Viện dân biểu Bắc kỳ.
Cái sự học hồi ấy cũng lắm chuyện để kể. Học viên rất lôm côm về độ tuổi, về trình độ và vùng miền; đàn ông thì già, đàn bà thì xấu ấy vậy mà cũng có tình yêu ngoài luồng vụng trộm nảy nở, he he.
Mà cũng lạ gọi là trường hậu bổ nhưng có đứa trẻ ranh và cũng có thằng U50, U60...đúng là chả biết đằng nào mà lần.
Vui phết, có anh đi tập thể dục, vận đồ thể thao nhưng đi từ chiều hôm trước mà đến tận sáng hôm sau mới về...học chừng vài tháng (có khi ngắn hơn) là các lớp xuất hiện các "đôi bạn cùng tiến" rất thân thiết mà bây giờ bọn teen dùng từ hot hơn là "cặp đôi hoàn hảo", bắt chước một gameshow trên truyền hình.
Cứ mỗi kỳ thi đến gần là các cán sự lớp lại chạy như cờ lông công, chạy đi đâu thì giời mới biết nhưng có vẻ tất bật ghê lắm, mà cán sự lớp là oai lắm đó nghe, hình như họ đi thi không cần học như những đứa khác vì chắc chắn là đạt điểm khá, thấy đồn thế nhưng không biết thực hư thế nào!
Học cũng không đến nỗi vất vả, thường là một buổi. Còn lại là ngủ, đi chơi chán thì đánh cờ, thể thao; ấy vậy mà cũng lắm chuyện. Mấy anh lẻo khoẻo, đầu gối quá tai đăm chiêu cau có chơi cờ trên tiền sảnh hội trường lớn  thì xưng xưng mình là những bậc minh triết, chơi môn thể thao trí tuệ tao nhã chứ không như bọn tiểu nhân vai u thịt bắp đang vật nhau dưới sân kia, ý là chỉ mấy anh đánh cầu lông dưới sân. Mấy cha cầu lông, bóng bàn thì chê mấy tay đánh cờ là mưu mẹo, cờ gian bạc lận không thảnh thơi khỏe mạnh như bọn mình, đúng là chó chê mèo lắm lông! Y chả thạo món gì nên chắp tay sau đít đi vòng quanh bọn vô công rỗi nghề đó "xui nguyên, giục bị" (nay gọi là môn thể thao thọc gậy bánh xe, môn này nghe đâu đang rất là thịnh hành) làm cho không khí thêm xôm trò...

Còn rất nhiều chuyện đáng nghe, xin hầu bà con ở một entry khác
A27 Chụp ảnh lưu niệm ở Di tích ngã 3 Đồng Lộc Hà Tĩnh (04/11/2005)



Viếng nghĩa trang liệt sỹ  ngã 3 Đồng Lộc




Trên đỉnh Langbian Đà Lạt lộng gió



Hầu hết đến nay các vị có mặt ở ảnh  trên đều đã thay đổi danh phận, nhiều kẻ lên cao hơn, nhiều kẻ chuyển ngành nghề

Thứ Năm, 5 tháng 7, 2012

Lại lên đường

Chả hiểu sao cuộc đời Y từ bé đến giờ luôn gắn với những cuộc hành trình; (Thế nên blog Y có cả một mục Du hý) những cuộc du hý có khi miễn phí, có khi bất đắc dĩ, ngắn có ,dài có, vừa vừa có, sung sướng thú vị có, vất vả hành xác cũng có và có cả những chuyến đi xen lẫn vui buồn, có những chuyến đi vừa vui vừa ấm ức khó chịu. Nhưng không đi Y lại thấy nhớ nhớ thế nào.
Ôi, nghiệp chướng mất rồi!
Sáng nay, trời mưa vừa dứt Y lại lên đường đi vùng cao biên viễn
Đi đã nhiều nhưng lần nào cũng có những tình huống không ngờ tới
Nhưng mà...
Lười viết quá...
...vì già rồi (có đứa bảo thế, hắn còn comment: già rồi thì nghỉ ngơi ở nhà, khà khà khà. Mình đã già rồi thật ư???)
Thôi thì lười viết thì kể bằng ảnh hầu bà con vậy:
Đường đi khó khăn, quanh co đèo dốc trong rừng





Rồi hăm hở lao qua suối...

Ôi thôi, chìm nghỉm...

Mau chui ra và vớt đồ kẻo trôi hết thì bỏ bu!



Thuê người đẩy xe qua suối (Những 300k đấy, he he)

Cuối cùng thì cũng đến nơi, một xã cách huyện lỵ 30 km, trụ sở chật hẹp, dân còn khó khăn. Chỉ có bụi mơ lông trong ảnh bám vào cột anten của viễn thông là tươi tốt, non mơn mởn. Có lẽ người dân ở đây không ăn thịt chó chăng? nên lá mơ lông mới còn nhiều như thế nhỉ, mà cũng không biết nữa vì dọc đường đi chả thấy con chó nào, bữa ăn thì lại có thịt chó tơ (Chó dậy thì) quay vàng ruộm, ngon ngon là...khà khà