Ngày nay nhiều người bị những bệnh rất oái oăm mà xưa ít gặp, ví dụ như
bệnh mà y văn gọi là bài tiết dưỡng chất, triệu chứng là đi tiểu nước
đục, đóng cặn (không phải tiểu đường) người gầy rộc, ăn uống, bồi bổ bao
nhiêu cũng không lại. Nhiều bệnh nhân đã đi khám và dùng nhiều thuốc
tây và can thiệp tây y nhưng bệnh tình không thuyên giảm.
Một lần
tình cờ ngồi uống cà - phê sáng trên đường Hùng Vương, thành phố Lạng
Sơn với giáo sư Nguyễn Minh Thuyết; trước cửa quán ấy có một cây đa
lông, ông mới kể người nhà của ông bị bệnh này chữa mãi không khỏi. Cũng
cần lưu ý rằng nếu nước tiểu đóng cặn lâu ngày sẽ gây tắc nghẽn không
được phải phẫu thuật (mổ). Một lần nghe ông lang mách lấy rễ củ của cây
đa lông và cây rau dừa chăn lợn ở ngoài đồng ruộng hay mọc về mùa hè sao
vàng cho khô rồi sắc uống thay nước chè hàng ngày, giáo sư đã làm theo.
Rất đơn giản vậy mà bệnh thuyên giảm rồi khỏi hẳn. Đúng là gặp thầy gặp
thuốc. Nếu bạn hay người thân của bạn có bị bệnh trên thì nên áp dụng
xem sao, nhưng tôi khuyên là trước khi dùng hãy viết thư hỏi cụ thể giáo
sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên đại biểu Quốc hội Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn về
cách dùng, liều dùng.
GS Nguyễn Minh Thuyết, cựu ĐBQH tỉnh Lạng Sơn
"Con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm !...". (Lời con trai lão Hạc)
Người theo dõi
Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012
CŨNG CHỈ LÀ BÁT CƠM MANH ÁO...
Nghe kể lại,
ấy là chuyện của công chức với những ai là chuyên viên chính hay nhăm
nhe muốn thành chuyên viên cao cấp, hòng tăng thêm tý lương trong thời
buổi "gạo châu củi quế" giá cả nhảy múa tưng bừng và có khi lao
như tên bắn. Cái cảnh "sáng vác ô đi tối vác về" đã chán muốn đổi đời
sang "Sáng vác ô (tô) đi tối vác về" he he...
Đầu tiên là hắn ta phải hội đủ một số yếu tố A,B,C gì đó và sau đó là phải đi học một cua "cave" (từ lóng chỉ chuyên viên - CV) cao cấp tại Học viện Hành chính quốc gia (Chắc các Học viện khác không có chữ quốc gia thì không phải quốc gia, he he) sau đó là nín thở nằm im đừng vi phạm gì chờ đến lượt đi thi và phải nhớ nguyên tắc bất di bất dịch "Đường sữa từ trên xuống, cuốc xẻng từ dưới lên" do đó nhiều anh chờ đến lúc hưu mà vẫn chưa được đi thi vì chỉ tiêu có hạn mà người muốn thi và người có chứng chỉ thì rất nhiều. Chả thế mà mấy bác già vui tính bảo cuối đời đi học kiếm cái chứng chỉ về để mai mốt ngõ hầu viết cái điếu văn cho sinh động thôi!
Lễ Khai giảng một khóa bồi dưỡng quản lý nhà nước Chương trình Chuyên viên cao cấp
Trước đây Chuyên viên cao cấp là đồ xa sỉ quý hiếm vì nó ít và có phần "xịn" hơn bây giờ nhiều. Cả năm Học viện mới hân hoan đón lớp học viên cao cấp (theo lời thầy giáo), giờ thì một năm rất nhiều lớp, nhiều vùng miền, khu vực các thầy cũng không thể nhớ hết. Giảng đường học viện sử dụng hết công suất. Chả thế mà cách đây vài năm cán bộ, giáo viên của Học viện mới có vài trăm thì nay đã ngót một ngàn, cũng theo lời thầy.
Cũng bởi mở nhiều nên tiêu chí bị hạ bớt xuống thảm hại, các Trưởng phòng và tương đương cũng được cử đi, trẻ nhất chỉ có 38 tuổi, có anh lương còn chưa quá 4 phẩy. Cơ chế ở đây cũng rất linh hoạt bởi nuôi sống cả bộ máy khổng lồ ấy mà chờ bao cấp thì chắc đóng cửa trường.
Tiêu chí đã vậy thì chất lượng thế nào? Chuyên viên cao cấp và chuyên viên chính cũng không khác nhau về "chất" là bao, có chăng là khác nhau về thang bậc lương vốn đã vô vàn sự bất cập khập khiễng vô lý, vô lối. Cũng vì lẽ đó mà đi học và đi thi CVCC cũng chỉ là bát cơm manh áo mà thôi! Hay là đi học lơ là nên không nhận thức được gì nhỉ, he he
Trước đây chương trình học 3 tháng nay cắt đi chỉ còn gần 2 tháng trong đó gần một tháng học và đi thực tế thời gian còn lại viết một đề án tối thiểu 15 trang và không quá 35 trang nói chung 20 trang, bìa cứng nhũ vàng là đẹp. Làm hai bài kiểm tra chưa thấy ai trượt mặc dù cũng dọc phách cũng chấm thi, cũng đề cương câu hỏi cũng niêm phong đề với lời dặn học viên không được sử dụng tài liệu và cán bộ coi thi không được giải thích gì thêm, he he
Khổ cho các học viên già vốn làm sếp chỉ quen chỉ tay và... ký giờ ngồi viết 3 tiếng vật vã khổ sở, mà không làm bài kiểm tra thì không được. Thời tiết Hà Nội tháng 6 ngột ngạt, phòng không có điều hòa, nhiều cha béo quá sống trong nhà vệ sinh nhiều hơn vì chốc chốc lại phải vào dội nước cho mát. Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò, câu này luôn đúng với bọn học sinh. Tay nào cũng mong thầy ốm, thầy cho nghỉ sớm; chắc cũng khác lũ sinh viên trẻ nên giờ nào thầy cũng hứa trước là cho nghỉ sớm hoặc đại loại là người nói phải nghỉ trước khi người nghe dừng việc nghe, rồi thì nghỉ sớm cũng là văn hóa v v và v v Ai đời sàn nhà lát gỗ ép công nghiệp mà các bố đổ cả xô nước ra cho mát, trước khi đi ăn cơm còn đổ thêm nửa xô cho chắc ăn! Gỗ ép gặp nước nở ra như bánh đa ngâm nước.
Sản phẩm của những "ca - ve" già sau 2 tháng dùi mài...
Dù chỉ là hai tháng không đầy đủ chưa biết hết mặt nhau nhưng lớp nào cũng làm kỷ yếu vì là thông lệ và có người làm cho trọn gói cho rồi!
Vui nhất là vụ đi thực tế vì trong chương trình nó thế! he he
Tay nào cũng sợ lớp về địa phương mình thực tế vì lớp nào cũng đông như quân Nguyên, tiếp ăn đã đủ như tằm ăn rỗi. Nhiều anh có chức sắc làm đến phó tỉnh trưởng cũng hốt. Cái loại trưởng phó ngành thì không nói vì nó cũng sợ nhưng những tay trong diện hạ tiêu chí thì hết hơi vì không khéo tỉnh nghĩ "rước" về nên sợ ăn chửi, he he, khổ thật
Nhưng rồi vẫn phải đi và cũng nhiều người thích đi vì cũng lắm anh ở nhà công việc căng thẳng đi thế khác gì đi chơi!
Vui nhất vẫn là tụ tập tán gẫu, bia bọt trêu đùa như bọn sinh viên mới nhập trường. Đi học hai tháng, bọn già được trẻ lại đến mấy tuổi.
Một lớp học lên đường đi thực tế
Hà Nội mùa hè 2012 - Nghe kể lại
Đầu tiên là hắn ta phải hội đủ một số yếu tố A,B,C gì đó và sau đó là phải đi học một cua "cave" (từ lóng chỉ chuyên viên - CV) cao cấp tại Học viện Hành chính quốc gia (Chắc các Học viện khác không có chữ quốc gia thì không phải quốc gia, he he) sau đó là nín thở nằm im đừng vi phạm gì chờ đến lượt đi thi và phải nhớ nguyên tắc bất di bất dịch "Đường sữa từ trên xuống, cuốc xẻng từ dưới lên" do đó nhiều anh chờ đến lúc hưu mà vẫn chưa được đi thi vì chỉ tiêu có hạn mà người muốn thi và người có chứng chỉ thì rất nhiều. Chả thế mà mấy bác già vui tính bảo cuối đời đi học kiếm cái chứng chỉ về để mai mốt ngõ hầu viết cái điếu văn cho sinh động thôi!
Lễ Khai giảng một khóa bồi dưỡng quản lý nhà nước Chương trình Chuyên viên cao cấp
Trước đây Chuyên viên cao cấp là đồ xa sỉ quý hiếm vì nó ít và có phần "xịn" hơn bây giờ nhiều. Cả năm Học viện mới hân hoan đón lớp học viên cao cấp (theo lời thầy giáo), giờ thì một năm rất nhiều lớp, nhiều vùng miền, khu vực các thầy cũng không thể nhớ hết. Giảng đường học viện sử dụng hết công suất. Chả thế mà cách đây vài năm cán bộ, giáo viên của Học viện mới có vài trăm thì nay đã ngót một ngàn, cũng theo lời thầy.
Cũng bởi mở nhiều nên tiêu chí bị hạ bớt xuống thảm hại, các Trưởng phòng và tương đương cũng được cử đi, trẻ nhất chỉ có 38 tuổi, có anh lương còn chưa quá 4 phẩy. Cơ chế ở đây cũng rất linh hoạt bởi nuôi sống cả bộ máy khổng lồ ấy mà chờ bao cấp thì chắc đóng cửa trường.
Tiêu chí đã vậy thì chất lượng thế nào? Chuyên viên cao cấp và chuyên viên chính cũng không khác nhau về "chất" là bao, có chăng là khác nhau về thang bậc lương vốn đã vô vàn sự bất cập khập khiễng vô lý, vô lối. Cũng vì lẽ đó mà đi học và đi thi CVCC cũng chỉ là bát cơm manh áo mà thôi! Hay là đi học lơ là nên không nhận thức được gì nhỉ, he he
Trước đây chương trình học 3 tháng nay cắt đi chỉ còn gần 2 tháng trong đó gần một tháng học và đi thực tế thời gian còn lại viết một đề án tối thiểu 15 trang và không quá 35 trang nói chung 20 trang, bìa cứng nhũ vàng là đẹp. Làm hai bài kiểm tra chưa thấy ai trượt mặc dù cũng dọc phách cũng chấm thi, cũng đề cương câu hỏi cũng niêm phong đề với lời dặn học viên không được sử dụng tài liệu và cán bộ coi thi không được giải thích gì thêm, he he
Khổ cho các học viên già vốn làm sếp chỉ quen chỉ tay và... ký giờ ngồi viết 3 tiếng vật vã khổ sở, mà không làm bài kiểm tra thì không được. Thời tiết Hà Nội tháng 6 ngột ngạt, phòng không có điều hòa, nhiều cha béo quá sống trong nhà vệ sinh nhiều hơn vì chốc chốc lại phải vào dội nước cho mát. Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò, câu này luôn đúng với bọn học sinh. Tay nào cũng mong thầy ốm, thầy cho nghỉ sớm; chắc cũng khác lũ sinh viên trẻ nên giờ nào thầy cũng hứa trước là cho nghỉ sớm hoặc đại loại là người nói phải nghỉ trước khi người nghe dừng việc nghe, rồi thì nghỉ sớm cũng là văn hóa v v và v v Ai đời sàn nhà lát gỗ ép công nghiệp mà các bố đổ cả xô nước ra cho mát, trước khi đi ăn cơm còn đổ thêm nửa xô cho chắc ăn! Gỗ ép gặp nước nở ra như bánh đa ngâm nước.
Sản phẩm của những "ca - ve" già sau 2 tháng dùi mài...
Dù chỉ là hai tháng không đầy đủ chưa biết hết mặt nhau nhưng lớp nào cũng làm kỷ yếu vì là thông lệ và có người làm cho trọn gói cho rồi!
Vui nhất là vụ đi thực tế vì trong chương trình nó thế! he he
Tay nào cũng sợ lớp về địa phương mình thực tế vì lớp nào cũng đông như quân Nguyên, tiếp ăn đã đủ như tằm ăn rỗi. Nhiều anh có chức sắc làm đến phó tỉnh trưởng cũng hốt. Cái loại trưởng phó ngành thì không nói vì nó cũng sợ nhưng những tay trong diện hạ tiêu chí thì hết hơi vì không khéo tỉnh nghĩ "rước" về nên sợ ăn chửi, he he, khổ thật
Nhưng rồi vẫn phải đi và cũng nhiều người thích đi vì cũng lắm anh ở nhà công việc căng thẳng đi thế khác gì đi chơi!
Vui nhất vẫn là tụ tập tán gẫu, bia bọt trêu đùa như bọn sinh viên mới nhập trường. Đi học hai tháng, bọn già được trẻ lại đến mấy tuổi.
Một lớp học lên đường đi thực tế
Hà Nội mùa hè 2012 - Nghe kể lại
Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012
12C ngày ấy - bây giờ
Mới có 25 năm
mà cũng nhiều đổi khác, vật đổi sao rời. Hôm trước bọn bạn tổ chức kỷ
niệm 25 năm ngày ra trường tiếc quá Y không về được. Ngày thằng Mạnh cho
con gái đi lấy chồng ở Bắc Giang, Y cũng chỉ có lời chúc phúc. Thế mới
thấm thân phận của kẻ tha phương cầu thực
Trường học tranh tre nứa lá và lũ bạn ngày xưa
Trường học và lũ bạn ngày nay, nhà tranh tre nứa lá đã không còn, nhà cửa khang trang hơn còn Y và bạn bè thì ngày càng ọp ẹp.
Trường học tranh tre nứa lá và lũ bạn ngày xưa
Trường học và lũ bạn ngày nay, nhà tranh tre nứa lá đã không còn, nhà cửa khang trang hơn còn Y và bạn bè thì ngày càng ọp ẹp.
Nhiều
tên đã già và nhăm nhe lên chức ông, bà. Buồn cười nhìn cái ảnh họp lớp
nhiều đứa trông lam lũ tóc điểm bạc, có đứa hói nửa đầu, nhưng tính
cách vẫn như xưa vẫn mày tao chi tớ...Nhiều năm không gặp lại nên không
thể nhận ra đứa nào với đứa nào cả. Đứa nào trông cũng quen quen mà hình
như cũng chưa gặp bao giờ...
Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012
Bãi Cháy vào thu...(Bai Chay in the autumn ...)
Bãi Cháy vốn nổi tiếng từ thời bao cấp, những
thập niên gần đây Bãi Cháy mất dần sự hấp dẫn so với các bãi biển khác
mặc dù vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới, rồi thì kỳ quan mới,
Tuần Châu đảo ngọc...v v và v v cũng không làm cho Bãi Cháy hấp dẫn
hơn.
Bởi bãi tắm bẩn quá, nhiều rác do con người xả ra, nước thải chảy xuống biển đen ngòm. Biển đục và bẩn, ra khoảng gần 1 m sâu đã không nhìn thấy đáy. Bởi là vịnh nên không có sóng hoặc sóng bé quá, tắm an toàn nhưng cũng kém gây hứng thú và cảm giác mạnh về biển cả.
Lập thu nhưng bãi biển đã vắng hoe, khách nước ngoài cũng ít.
Khách sạn èo uột dăm vị khách lẻ, vài hội thảo giải ngân cho kịp kế hoạch
Dịch vụ vẫn thế, mời mọc chèo kéo và không an tâm về giá cả, chất lượng. Y không ra vịnh nên không biết các dịch vụ như thế nào...
Những thực khách sành ăn không chọn các nhà hàng lớn ở Hạ Long hay Bãi Cháy mà đi quá vài chục km xuống Cẩm Phả đi vào ngõ ngách rồi đi sâu tiếp con đường độc đạo ra bờ biển, cây cối rậm rạp, đường mấp mô lầy lội dẫn ra sát cửa biển lên một chiếc bè đơn sơ nhưng hải sản thì tươi sống rất ngon, có những món lần đầu thưởng thức như con giuốc, gỏi tôm rảo, ốc...mà nghe dân bản địa giới thiệu đã thấy thèm...chẹp chẹp
Chiếc cầu tầu vẫn như 30 năm trước Y có dịp đặt chân đến khi đi trại hè cháu ngoan Bác Hồ
Một "quán bè" ẩn khuất giữa núi rừng nơi cửa biển Cẩm Phả
Về qua chợ Tiên Yên mua chút hải sản tươi sống ngon và rẻ hơn ở Bãi Cháy, Hạ Long
(Chụp từ tầng 15 khách sạn Hạ Long Dream ngày 20 tháng 9 năm 2012)
Bởi bãi tắm bẩn quá, nhiều rác do con người xả ra, nước thải chảy xuống biển đen ngòm. Biển đục và bẩn, ra khoảng gần 1 m sâu đã không nhìn thấy đáy. Bởi là vịnh nên không có sóng hoặc sóng bé quá, tắm an toàn nhưng cũng kém gây hứng thú và cảm giác mạnh về biển cả.
Lập thu nhưng bãi biển đã vắng hoe, khách nước ngoài cũng ít.
Khách sạn èo uột dăm vị khách lẻ, vài hội thảo giải ngân cho kịp kế hoạch
Dịch vụ vẫn thế, mời mọc chèo kéo và không an tâm về giá cả, chất lượng. Y không ra vịnh nên không biết các dịch vụ như thế nào...
Những thực khách sành ăn không chọn các nhà hàng lớn ở Hạ Long hay Bãi Cháy mà đi quá vài chục km xuống Cẩm Phả đi vào ngõ ngách rồi đi sâu tiếp con đường độc đạo ra bờ biển, cây cối rậm rạp, đường mấp mô lầy lội dẫn ra sát cửa biển lên một chiếc bè đơn sơ nhưng hải sản thì tươi sống rất ngon, có những món lần đầu thưởng thức như con giuốc, gỏi tôm rảo, ốc...mà nghe dân bản địa giới thiệu đã thấy thèm...chẹp chẹp
Chiếc cầu tầu vẫn như 30 năm trước Y có dịp đặt chân đến khi đi trại hè cháu ngoan Bác Hồ
Một "quán bè" ẩn khuất giữa núi rừng nơi cửa biển Cẩm Phả
Về qua chợ Tiên Yên mua chút hải sản tươi sống ngon và rẻ hơn ở Bãi Cháy, Hạ Long
(Chụp từ tầng 15 khách sạn Hạ Long Dream ngày 20 tháng 9 năm 2012)
Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012
MÓN QUÀ ĐẶC BIỆT CỦA MỘT NGƯỜI BẠN...(special gift of a friend)
Một
người bạn blog đã vẽ tặng bức hình theo nguyện vọng của Y qua một bức
ảnh trên blog của Y. Xin cảm ơn người bạn đã dày công họa cho Y, và Y
lại có cái để khoe khoang với bạn bè. Dưới đây là bức họa và bức ảnh
kiểm chứng, xin giới thiệu với tất cả mọi người.
Bức họa của bạn Kian tặng Y
Bức ảnh gốc ở entry "...rồi đến Hàng Châu" http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591294/category/Trung+Qu%E1%BB%91c
Link sang nhà bạn ấy: http://blog.yahoo.com/_THZI5BMVVJO4S53VPG5ZQYQ7GM/articles/862328/index
Bức họa của bạn Kian tặng Y
Bức ảnh gốc ở entry "...rồi đến Hàng Châu" http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591294/category/Trung+Qu%E1%BB%91c
Link sang nhà bạn ấy: http://blog.yahoo.com/_THZI5BMVVJO4S53VPG5ZQYQ7GM/articles/862328/index
Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012
ÔNG "HÀN THUYÊN" LÀNG CHIỀNG
Chả
biết ông người ở đâu, có lẽ cũng không phải là người làng Chiềng. Từ
lúc còn nhỏ Y đã thấy ông ở làng, ai cũng gọi ông là ông Thuyên hay là
ông "Hàn Thuyên" mà cũng chả biết ông họ gì, họ hàng thân thích với ai ở
cái làng con rùa này. Ông hay mặc quần soóc, áo trắng nhờ nhờ pha màu
cháo lòng, mái tóc trắng như cước dài và bồng trông rất phiêu!. Thỉnh
thoảng ông đội mũ phớt chống gậy ba - toong tự chế đi qua làng lên phố
huyện trông rất oách! ít nhất là trong mắt lũ con nít như bọn Y. Ông học
trường tây thì phải nên có biết chút tiếng Pháp, mỗi khi qua làng ông
hay nói vài câu mà bọn Y chả hiểu gì chỉ đồng thanh chào ông ran lên:
U - a - lê - vu!, đứa nào còn bé 2, 3 tuổi nói còn ngọng thì "Ba - vu, ba - vu"!, vui đáo để. Nhưng ông rất hiền chả dọa mắng đứa nào cả. Ông Thuyên rất thích nói chuyện với mấy anh em nhà Y bởi bố Y làm giáo học, mấy đứa nhà Y được thừa hưởng gen ấy và có nghe lỏm của bố Y mấy chuyện nhân tình thế thái, đem tâu lại với ông nên ông rất quý và hay thưởng cho mấy cái xoa đầu!
Nhà ông ở bờ suối đoạn giữa vực Là Lìu và vực Chảy Quanh (Hay Chẻ Quanh), gọi là nhà chứ thực ra nó chỉ là cái lều nhỏ lợp cỏ tranh rộng vừa cái giường nằm và một ngăn nhỏ làm bếp đặt ba ông đầu rau có khi ngày chỉ đỏ lửa một lần, đầu nhà có lối đi xuống suối ông bắc một cái cầu để múc nước ăn và tắm giặt, rửa rau...Lúc ấy nước suối còn nhiều và rất sạch, trong vắt, chưa cạn và bẩn thỉu như bây giờ toàn túi nilon và kotex đã qua sử dụng.
Cái giếng mấy trăm năm tuổi của Làng Chiềng đã được xây lại nên không còn mang vẻ cổ kính nữa
Ông Thuyên hay đi câu và ông rất sát cá nên hay câu được cá trê, cá bò, trạch chấu và cả ba ba nữa, những con cá bò vàng hườm, béo múp hàng nửa cân. Ông cho nấu lẫn với hạt bo bo, hoặc gạo kho thành món cháo hay cơm nát với cá mà ông hay gọi là súp, đi qua đầu chòi cũng thấy thơm lừng. Có lẽ do đói mà bọn Y thấy thơm chứ gạo kho thì thơm cái quái gì. À nói thêm, hình như ông Thuyên có công với cách mạng hay là lính Điện Biên Phủ về bị mất sức hay thương binh gì đó nên ông mới được ăn gạo sổ, chảng biết cơn gió nào đưa ông đến với làng Chiềng. Rồi một năm nọ, trời làm mưa gió, nửa đêm nước suối lên cao mà ông Thuyên không biết, tràn qua chiếc chõng tre, ông Thuyên suýt bị Hà Bá bắt mất. Sau đó ông ốm nặng rồi được nhà nước đưa đi điều dưỡng ở tận thành phố Thái Nguyên. Từ đó ông không bao giờ về làng Chiềng nữa vì ông không có ai thân thích ở làng Chiềng. Căn lều cỏ của ông cũng bị lũ cuốn trôi tự khi nào. Ngày ấy có lẽ ông cũng ngoài 70 tuổi rồi.
Hết cấp 3, Y rời làng Chiềng mon men lên thành phố học đại học, có lần tình cờ gặp ông Thuyên vẫn quần soóc với áo cháo lòng, có thêm cặp kính trắng vác cần câu đi ngoài phố, Y lễ phép chào và ông giữ lại nói chuyện rất lâu về làng Chiềng với những ký ức rất đẹp của những năm tháng cuối đời ở làng quê miền núi yên bình.
Rồi ông Thuyên mất lúc nào Y cũng không hay, làng Chiềng cũng không ai biết, chỉ còn lại nhưng câu chuyện về ông Thuyên mà bọn trẻ con như bọn Y thời ấy là ai cũng nhớ. Thấm thoắt những đứa trẻ con hồi ấy giờ đã có đứa nhăm nhe lên chức ông, bà...
Làng Chiềng, mùa hạ 2012
Xem thêm: Văn hóa dân gian Làng Chiềng Ở ĐÂY
U - a - lê - vu!, đứa nào còn bé 2, 3 tuổi nói còn ngọng thì "Ba - vu, ba - vu"!, vui đáo để. Nhưng ông rất hiền chả dọa mắng đứa nào cả. Ông Thuyên rất thích nói chuyện với mấy anh em nhà Y bởi bố Y làm giáo học, mấy đứa nhà Y được thừa hưởng gen ấy và có nghe lỏm của bố Y mấy chuyện nhân tình thế thái, đem tâu lại với ông nên ông rất quý và hay thưởng cho mấy cái xoa đầu!
Nhà ông ở bờ suối đoạn giữa vực Là Lìu và vực Chảy Quanh (Hay Chẻ Quanh), gọi là nhà chứ thực ra nó chỉ là cái lều nhỏ lợp cỏ tranh rộng vừa cái giường nằm và một ngăn nhỏ làm bếp đặt ba ông đầu rau có khi ngày chỉ đỏ lửa một lần, đầu nhà có lối đi xuống suối ông bắc một cái cầu để múc nước ăn và tắm giặt, rửa rau...Lúc ấy nước suối còn nhiều và rất sạch, trong vắt, chưa cạn và bẩn thỉu như bây giờ toàn túi nilon và kotex đã qua sử dụng.
Cái giếng mấy trăm năm tuổi của Làng Chiềng đã được xây lại nên không còn mang vẻ cổ kính nữa
Ông Thuyên hay đi câu và ông rất sát cá nên hay câu được cá trê, cá bò, trạch chấu và cả ba ba nữa, những con cá bò vàng hườm, béo múp hàng nửa cân. Ông cho nấu lẫn với hạt bo bo, hoặc gạo kho thành món cháo hay cơm nát với cá mà ông hay gọi là súp, đi qua đầu chòi cũng thấy thơm lừng. Có lẽ do đói mà bọn Y thấy thơm chứ gạo kho thì thơm cái quái gì. À nói thêm, hình như ông Thuyên có công với cách mạng hay là lính Điện Biên Phủ về bị mất sức hay thương binh gì đó nên ông mới được ăn gạo sổ, chảng biết cơn gió nào đưa ông đến với làng Chiềng. Rồi một năm nọ, trời làm mưa gió, nửa đêm nước suối lên cao mà ông Thuyên không biết, tràn qua chiếc chõng tre, ông Thuyên suýt bị Hà Bá bắt mất. Sau đó ông ốm nặng rồi được nhà nước đưa đi điều dưỡng ở tận thành phố Thái Nguyên. Từ đó ông không bao giờ về làng Chiềng nữa vì ông không có ai thân thích ở làng Chiềng. Căn lều cỏ của ông cũng bị lũ cuốn trôi tự khi nào. Ngày ấy có lẽ ông cũng ngoài 70 tuổi rồi.
Hết cấp 3, Y rời làng Chiềng mon men lên thành phố học đại học, có lần tình cờ gặp ông Thuyên vẫn quần soóc với áo cháo lòng, có thêm cặp kính trắng vác cần câu đi ngoài phố, Y lễ phép chào và ông giữ lại nói chuyện rất lâu về làng Chiềng với những ký ức rất đẹp của những năm tháng cuối đời ở làng quê miền núi yên bình.
Rồi ông Thuyên mất lúc nào Y cũng không hay, làng Chiềng cũng không ai biết, chỉ còn lại nhưng câu chuyện về ông Thuyên mà bọn trẻ con như bọn Y thời ấy là ai cũng nhớ. Thấm thoắt những đứa trẻ con hồi ấy giờ đã có đứa nhăm nhe lên chức ông, bà...
Xem thêm: Văn hóa dân gian Làng Chiềng Ở ĐÂY
Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012
Đất Tổ ngày không giỗ
Mấy ngày nóng nực, khác với mọi người lao ra biển tránh nóng, Y theo
chúng bạn hành hương về Đất Tổ, nhớ về cội nguồn và những mong Hùng
Vương ban phúc!. Trời nóng nực nhưng được cái đường vào Đền Hùng vắng
lặng, phong cảnh có nhiều thay đổi so với lần trước Y đến cũng khá lâu
cách đây. Đường vào sạch sẽ, cây cối um tùm, dịch vụ vẫn đông nhưng
không ồn ào chèo kéo gây khó chịu. Các con cháu ngàn đời của Vua Hùng
thong dong thả bộ từng bước một chậm rãi lên Đền, làm lễ trật tự trang
nghiêm tĩnh tâm không chen lấn xô bồ như vào dịp lễ hội thường thấy.
Trách sao được, có đông mới nên hội chứ, các cụ đã chả nói: "vui xem
hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội, bối rối xem đám ma..." là gì.
Viếng Vua Hùng xong, Y đi tham quan Bảo tàng Hùng Vương ở thành phố Việt Trì vốn là Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, khác với Bảo tàng Hùng Vương cùng tên ở ngay chân đường lên đền. Là những vị khách hơi đặc biệt (Có lẽ cùng nghề sử chăng) nên cả lũ được Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Đức Tuấn đích thân hướng dẫn và đưa xuống kho xem và sờ một số bảo vật quốc gia, điều mà ngay khi vào bảo tàng người ta hay bắt gặp cảnh báo: "KHÔNG SỜ VÀO HIỆN VẬT - DON'T TOUCH EXHIBIT". Là bảo tàng tỉnh nhưng được đầu tư khá lớn và cách trưng bày tạm coi là mới lạ so với cách trưng bầy truyền thống của các bảo tàng địa phương là gian khánh tiết, tự nhiên, tiền sơ sử, thời kỳ cách mạng và hiện nay, chấm hết!
Được cái khuôn viên rộng rãi dù việc trưng bày ngoài trời khá khiêm tốn trừ 2 chiếc máy bay chiến đấu chắc là MIC của Liên Xô và một chiếc xe tăng cổ lỗ. Mấy tay đi cùng chép miệng:khuôn viên này mà ở Hà Nội cho thuê trông xe thì bộn tiền, nghe sặc mùi tiền!
Dưới chân Đền
Dưới Kho Bảo tàng, nơi chỉ dành cho các nhân viên các vị khách bất trị giành nhau xem bảo vật quốc gia, ồn ào náo nhiệt xen lẫn tò mò, thích thú
Rời Bảo tàng cả bọn lại hò nhau chạy lên Tam Đảo. Thị trấn này mây núi kỳ thú nhưng chỉ có rặt nhà nghỉ, nhà hàng, nơi tránh nóng đùng nghĩa chứ không đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như ở Sa Pa, Một ngày đêm ở đó chúng tôi không hề gặp Tây ba - lô mà toàn ta ba - lô. Giá phòng cũng không hề rẻ: 600k cho một phòng double ở Green World Hotel không vào sao nào nhưng ở tạm được, tầng 8 mountain view không cần điều hòa mà cũng không cần mắc màn vì muỗi cũng hiếm thấy. Chợ Tam Đảo rất nhỏ, lèo tèo bán vài thứ đồ bản địa như mấy thứ thuốc lá cây dâm dương hoắc, trà thanh nhiệt, mít, dứa, chuối, ngọn su su treo toòng teng trên xe máy chắc là chở từ chân núi lên và các loại hàng tàu đâu cũng có. Nhà thờ mới xây tháp chuông là bản pho-tô của nhà thờ đá Sa Pa, vắng hoe vì không có giáo dân, nghe đâu mới đòi lại từ chính quyền.
Tam Đảo khác chỗ khác là bán các tiêu bản bướm rừng rất độc đáo đủ các màu sắc, kích cỡ, các nơi du lịch khác nghe nói cũng có nhiều bướm nhưng không phải bướm rừng. Từ Vĩnh Yên đi 25km là đến thị trấn Tam Đảo, đường lên quanh co, cây cối rậm rạp, cũng có cảm giác hơi sợ với ai lần đầu lên đèo bởi nếu mất phanh thì không biết đâu là đáy vực.
Một góc thị trấn Tam Đảo nhìn từ Green World Hotel
Mây núi Tam Đảo
Hát xoan Phú Thọ, di sản văn hóa phi vật thể mới được UNESCO công nhận
Viếng Vua Hùng xong, Y đi tham quan Bảo tàng Hùng Vương ở thành phố Việt Trì vốn là Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, khác với Bảo tàng Hùng Vương cùng tên ở ngay chân đường lên đền. Là những vị khách hơi đặc biệt (Có lẽ cùng nghề sử chăng) nên cả lũ được Giám đốc Bảo tàng Nguyễn Đức Tuấn đích thân hướng dẫn và đưa xuống kho xem và sờ một số bảo vật quốc gia, điều mà ngay khi vào bảo tàng người ta hay bắt gặp cảnh báo: "KHÔNG SỜ VÀO HIỆN VẬT - DON'T TOUCH EXHIBIT". Là bảo tàng tỉnh nhưng được đầu tư khá lớn và cách trưng bày tạm coi là mới lạ so với cách trưng bầy truyền thống của các bảo tàng địa phương là gian khánh tiết, tự nhiên, tiền sơ sử, thời kỳ cách mạng và hiện nay, chấm hết!
Được cái khuôn viên rộng rãi dù việc trưng bày ngoài trời khá khiêm tốn trừ 2 chiếc máy bay chiến đấu chắc là MIC của Liên Xô và một chiếc xe tăng cổ lỗ. Mấy tay đi cùng chép miệng:khuôn viên này mà ở Hà Nội cho thuê trông xe thì bộn tiền, nghe sặc mùi tiền!
Dưới chân Đền
Dưới Kho Bảo tàng, nơi chỉ dành cho các nhân viên các vị khách bất trị giành nhau xem bảo vật quốc gia, ồn ào náo nhiệt xen lẫn tò mò, thích thú
Rời Bảo tàng cả bọn lại hò nhau chạy lên Tam Đảo. Thị trấn này mây núi kỳ thú nhưng chỉ có rặt nhà nghỉ, nhà hàng, nơi tránh nóng đùng nghĩa chứ không đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như ở Sa Pa, Một ngày đêm ở đó chúng tôi không hề gặp Tây ba - lô mà toàn ta ba - lô. Giá phòng cũng không hề rẻ: 600k cho một phòng double ở Green World Hotel không vào sao nào nhưng ở tạm được, tầng 8 mountain view không cần điều hòa mà cũng không cần mắc màn vì muỗi cũng hiếm thấy. Chợ Tam Đảo rất nhỏ, lèo tèo bán vài thứ đồ bản địa như mấy thứ thuốc lá cây dâm dương hoắc, trà thanh nhiệt, mít, dứa, chuối, ngọn su su treo toòng teng trên xe máy chắc là chở từ chân núi lên và các loại hàng tàu đâu cũng có. Nhà thờ mới xây tháp chuông là bản pho-tô của nhà thờ đá Sa Pa, vắng hoe vì không có giáo dân, nghe đâu mới đòi lại từ chính quyền.
Tam Đảo khác chỗ khác là bán các tiêu bản bướm rừng rất độc đáo đủ các màu sắc, kích cỡ, các nơi du lịch khác nghe nói cũng có nhiều bướm nhưng không phải bướm rừng. Từ Vĩnh Yên đi 25km là đến thị trấn Tam Đảo, đường lên quanh co, cây cối rậm rạp, cũng có cảm giác hơi sợ với ai lần đầu lên đèo bởi nếu mất phanh thì không biết đâu là đáy vực.
Một góc thị trấn Tam Đảo nhìn từ Green World Hotel
Mây núi Tam Đảo
Hát xoan Phú Thọ, di sản văn hóa phi vật thể mới được UNESCO công nhận
Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012
Student, now a new story told (Part III) Thời sinh viên, chuyện bây giờ mới kể
Lại
nói chuyện giàu nghèo, hồi ấy cả lớp hình như đều nghèo kể cả bọn nhà
quê hay thành phố không phân biệt làm ruộng hay công chức. Có lẽ thế mà
lại hay và khoảng cách giàu nghèo trong lớp không có, dĩ nhiên là bất
đắc dĩ chứ chắc chẳng ai muốn mình cứ mãi nghèo làm gì. Ở ký túc xá
những đứa trong tỉnh mỗi tháng chỉ về nhà một lần vì có về cũng không
hòng xin thêm được gì từ cha mẹ nghèo khó, những đứa ở xa thì có khi cả
học kỳ mới về, nghỉ hè chúng cũng chỉ mong có việc gì đó làm thêm nhưng
hầu như không có vì kinh tế xã hội khi đó chưa phát triển và có nhu cầu
lao động thời vụ như bây giờ. Mùa hè bọn sinh viên chủ yếu là quần âu áo
sơ mi bỏ ngoài quần tuềnh toàng, dép lê hay tông lào, đầu tóc bù xù vì
chúng tự cắt cho nhau hoặc để thật dài mới cắt cho đỡ tốn tiền. Thời đó
nghề cắt tóc xa sút kinh khủng, nghề hàn dép lên ngôi. Cứ một miếng hàn
dép nhựa Tiền phong là 200 đồng, miếng to và khó thì 500 đồng, đồ nghề
chỉ là một lò than, vài miếng sắt mỏng, que hàn tự chế với mấy đôi dép
rách ra đầu đường đông đúc là ngày có thể kiếm hàng chục ngàn, cả tháng
thì cũng hơn lương Phó tiến sỹ dạy đại học ở Liên Xô về.
Các thầy cô giáo lúc đó đa phần là nghèo và rất nghèo, mình chỉ thấy thầy Bình dạy Tiếng Nga là có vẻ giàu vì thầy đi Liên Xô về có khi kiêm thêm nghề buôn tủ lạnh Xa - ra - tốp, bàn là hoa dâu, dây mai - so...Các thầy cô khác thì làm đậu, cấy lúa, nấu rượu, nuôi lơn...thôi thì đủ cả. Lúc rỗi rãi, lũ sinh viên khoa Sử hay đi hộ thầy Bảo dạy Cổ đại đóng gạch, vào lò gạch. Khi Y đã đi công tác tình cờ gặp thầy đến tỉnh để xem xét xác định mấy địa danh lịch sử ở biên giới phía Bắc như thôn Na Oa,cột đồng trụ... mà thời trai trẻ của thầy gánh nặng cơm áo gạo tiền nó níu chân thầy không đi được. Vẫn nhớ công trình nghiên cứu đầu đời của Y do thầy Bảo hướng dẫn là tìm hiểu lịch sử Việt Nam qua tác phẩm Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Gọi là "công trình" cho oai chứ thực chất chỉ là bài tập niên luận dài chừng 2 chục trang viết tay mà thôi. Phần thưởng là điểm 9 đúng nghĩa và được miễn thi cuối năm. Một bài tập sửa đi sửa lại nhiều lần và lên thư viện mài đít quần đến mòn nhưng không hề tốn với thầy chút nào dù chỉ là điếu thuốc Kỳ Hòa hay Du lịch đỏ vốn đang thịnh hành lúc đó. Dù vẫn nghèo xác xơ nhưng bữa cơm có thịt mời thầy cũng tự làm ấm lòng những thằng sinh viên mất nết của thầy năm nào. Chợt trộm nghĩ những khái niệm, địa danh ngày xưa thầy dạy làm mê hoặc bọn sinh viên khoa sử chúng tôi có khi cũng chỉ là ...giả định vậy.
Hồi ấy công nghệ quay cóp chưa tinh vi như bây giờ nhưng không thể nói là không ció mặc dù ít nghiêm trọng hơn bây giờ bởi sinh viên khi ấy coi thi lại, lưu ban, điểm kém là điều hiển nhiên như trời xanh vẫn thế không ghanh đua, không cần điểm cao chót vót, miễn là có chữ trong đầu. Hơn nữa các loại máy móc điện tử chưa có, máy phô-tô sản xuất phao chưa có, bọn chúng để nguyên cả cuốn vở dưới ngăn bàn, nếu cô giáo coi chặt thì chắc chắn không làm ăn gì được, có đứa xé vở. có đứa vẽ bản đồ, sơ đồ bằng bút không mực kẹp bên dưới nhưng nói chung chỉ là mẹo vặt không tinh vi và khó qua mặt thầy cô.Nhóm sinh viên triết học xuất sắc năm học 1989-1990 chụp ảnh lưu niệm bên nhà thí nghiêm đang ngổn ngang vật liệu (Đố ai phát hiện ra Y là thằng nào trong ảnh?)
Trường Đại học Sư phạm có ít nhất là một nửa sinh viên nữ nên các trường đại học xung quanh như Nông nghiệp 3 Bắc Thái (nay là đại học nông lâm Thái Nguyên, Đại học Y Thái Nguyên, Đại học Công nghiệp ...vốn dương thịnh âm suy coi đây là một rừng hoa, có bổn phận phải đến chiêm ngưỡng chinh phục do đó cũng không thiếu những vụ ẩu đả lẫn nhau vì tranh giành bạn gái, có điều là hồi ấy chưa nhiều báo mạng, báo lá cải và blog như bây giờ nên chuyện ấy vẫn còn kín tiếng ở đâu biết đó. Quà tặng hồi ấy chỉ là những bó hoa một loại hái vội cho vào túi ni lon cắt thủng hai đầu, những bưu thiếp của Liên Xô bán đầy ngoài chợ rẻ như cho. Vào dịp 8/3 hay 20/11 thì có thêm món pháo rất vui tai,vài em cháy quần áo cũng vì pháo của các anh. Sinh viên ngày ấy có cái đồng hồ Liên Xô hay cái xe đạp Thống Nhất đã là cực kỳ sang trọng rồi, không như bây giờ nào son phấn hàng hiệu, túi xách, giầy dép, iphone, ipad, ipod..đắt tiền. Bởi thế bạn cùng phòng thông cảm với nhau hơn, thân thiện hơn, đoàn kết hơn ít chia đẳng cấp. Trong lớp, dù hiếm hoi nhưng thi thoảng cũng có chuyện cầm nhầm tiền của bạn vì tiền thì đồng nào chả giống đồng nào, he he. Y cũng đã được dự một cuộc kiểm điểm nảy lửa vì mất 200 ngàn, thời đó đủ mua 1 chiếc xe đạp Thống Nhất khung võng, ơn giời rồi cũng tìm ra, trả lại, xin lỗi nhau rồi xí xóa không có kỷ luật hay ẩu đả gì. Khổ chủ là Tiến Vòng quê Bình Liêu, thủ phạm thì xin được giữ kín sống để dạ, chết mang theo, he he.
Sinh viên cũng đủ trò nghịch dại tỷ như cái Thúy ở Hà Bắc thách nhau ăn hết 10 quả trứng vịt hay mấy thằng con trai rủ nhau xăm chữ bằng pin thối và nhựa xương rồng, Hùng "ngạnh" thì xăm đầu con hổ theo hình ở đuôi đèn pin Trung Quốc, Hoàng "tréc" xăm năm sinh, Tiến "vòng" xăm hình mặt trời, sau này đứa nào cũng hối hận nhưng không thể xóa nổi, cũng may không đứa nào bị nhiễm trùng...Hồi ấy không biết do ở bẩn hay do nước mà cả con trai con gái đều bị hắc lào. Trên ô thoáng cửa sổ đầy lọ thuốc bôi hắc lào D.E.F, A.S.A tối đến chúng vạch ra bôi cho nhau xót cháy da thịt , có đứa con gái không chịu được rú lên như "trái cắn gió" he he
Hồi Y mới nhập trường chỉ có quán cô Hồng giáo vụ khoa Lý vợ thầy Lâm Tiến bán ở nhà dưới khu tập thể, một cantin ở nhà ăn và một cantin ở cổng và cô Nga vợ thầy Long khoa toán bán nước buổi tối ở giữa khoa Hóa và khoa Sử, chấm hết, muốn mua gì thì ra chợ Đồng Quang hay bách hóa Mỏ Bạch. Thời buổi tiền không có, thị trường mang nặng tính bao cấp nên lũ sinh viên chủ yếu là ngủ và học, không có chơi bời hay hoạt động gì ra hồn như sau này. Giọng Y ồm ồm nên được giao làm phát thanh viên kiêm biên tập viên chương trình truyền thanh của Liên chi đoàn cũng nhiều sáng tạo ra phết, tỉ như đọc các mẩu chuyện vui tự sáng tác hay cập nhật thông tin tình hình chiến tranh I-Rắc, (nói cho oại vậy chức thực chất là đọc thời sự trang 4 báo Nhân dân (Hồi đó báo Nhân dân chỉ có 4 trang không màu) thế mà các con giời đã đói bụng lại hiếu kỳ há mồm ra nghe mỗi khi loa truyền thanh của trường trên đỉnh nóc nhà ăn rống lên ông ổng "Đây là chương trình truyền thanh của Liên chi đoàn khoa Lịch sử", he he, vui như phết!
Cứ mỗi cuối tuần Y lại rủ mấy thằng bạn ra nhà ông anh ở đầu ngã ba đê Mỏ Bạch đi trường Đại học Nông nghiệp để hộ ông ấy đào đất san đồi, mục đích là tiêu bớt sức lực và được ăn no, lại có rượu nhấm nháp hi hi, thật đấy. Chỗ ấy đầu hươu mõm nai nhưng nay thì tấc đất tấc vàng...âu cũng có công nhỏ bé của mấy thằng bạn Y. Công việc là xả đất đồi xuống rồi dùng xe ba gác chở ra đổ xuống chỗ ao trũng vốn bị khoét xuống đắp đê Mỏ Bạch, lâu dần đất nhà bác rộng ra, ao bị lấp đi vườn càng thêm rộng. Xin nói thêm, chủ nhà vốn là giáo viên cùng dạy và kết nghĩa với cụ thân sinh ra Y, còn gọi là cụ Tiêu, cụ thường tự hào là cùng tuổi với Xê - Au - Xê - Cu, lãnh tụ một nước xã hội chủ nghĩa, thời thế thay đổi, ông ta bị lật đổ và coi là nhà độc tài, sau bận đó không thấy cụ Tiêu khoe nữa, ngày Y đi công tác được hơn chục năm thì cụ mất.
Giáo viên trong trường thời ấy là những nhà sư phạm thực sự và đáng kính, bỏ qua một bên gánh nặng cơm áo gạo tiền, tình thầy trò vô cùng trong sáng và thầy hết lòng vì trò. Còn nhớ thầy Lâm Xuân Đình đi Liên Xô về người ta mua toàn bàn là, chậu nhôm, nồi áp xuất, áo bay còn thầy khi ra sân bay đón chỉ có 2 tạ sách Liên Xô! Bù lại giờ giảng của thầy thì dù là Sử dân tộc học nhưng vô cùng hấp dẫn Y còn nhớ đến tận bây giờ. Thầy Bèn khoa Văn số đào hoa nên có câu: "Lương Bèn nói, Lương Bèn nghe
Làm thân con gái chớ nghe Lương Bèn...
Thầy Vũ Châu Quán dạy Văn hay đến nỗi tả mùa thu học trò như ngửi thấy mùi cốm phảng phất...hay có lẽ cũng một phần do cái dạ dày bọn chúng đã to mà chẳng mấy khi được đổ đầy! Thầy Trần Ngọc dạy Khảo cổ học đại cương xong, bọn học trò khoa Sử đi đâu thấy bờ tre mảnh sành cũng nghĩ ngay đến nào là niên đại, đồng vị phóng xạ, đồng vị phấn hoa...tranh luận rôm rả và muốn lấy ngay cuốc xẻng mà đào cả mả bố người ta lên, và nhiều giai thoại nữa về các cô, các thầy yêu quý. Ngày ấy mới le lói đổi mới, cái chuẩn mực "Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa, Tổng hợp bỏ qua..." cũng bắt đầu lung lay, nhưng Sư phạm thì vẫn không được quan tâm nên lũ sinh viên như Y vẫn có tự trào: "Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm", "Thầy giáo - tháo giày đi chân đất" vì nghề này, trường này "Ăn như sư, ở như phạm". Các kỹ sư tâm hồn tương lai quả là nhếch nhác...(Có thể còn nữa)
Các thầy cô giáo lúc đó đa phần là nghèo và rất nghèo, mình chỉ thấy thầy Bình dạy Tiếng Nga là có vẻ giàu vì thầy đi Liên Xô về có khi kiêm thêm nghề buôn tủ lạnh Xa - ra - tốp, bàn là hoa dâu, dây mai - so...Các thầy cô khác thì làm đậu, cấy lúa, nấu rượu, nuôi lơn...thôi thì đủ cả. Lúc rỗi rãi, lũ sinh viên khoa Sử hay đi hộ thầy Bảo dạy Cổ đại đóng gạch, vào lò gạch. Khi Y đã đi công tác tình cờ gặp thầy đến tỉnh để xem xét xác định mấy địa danh lịch sử ở biên giới phía Bắc như thôn Na Oa,cột đồng trụ... mà thời trai trẻ của thầy gánh nặng cơm áo gạo tiền nó níu chân thầy không đi được. Vẫn nhớ công trình nghiên cứu đầu đời của Y do thầy Bảo hướng dẫn là tìm hiểu lịch sử Việt Nam qua tác phẩm Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Gọi là "công trình" cho oai chứ thực chất chỉ là bài tập niên luận dài chừng 2 chục trang viết tay mà thôi. Phần thưởng là điểm 9 đúng nghĩa và được miễn thi cuối năm. Một bài tập sửa đi sửa lại nhiều lần và lên thư viện mài đít quần đến mòn nhưng không hề tốn với thầy chút nào dù chỉ là điếu thuốc Kỳ Hòa hay Du lịch đỏ vốn đang thịnh hành lúc đó. Dù vẫn nghèo xác xơ nhưng bữa cơm có thịt mời thầy cũng tự làm ấm lòng những thằng sinh viên mất nết của thầy năm nào. Chợt trộm nghĩ những khái niệm, địa danh ngày xưa thầy dạy làm mê hoặc bọn sinh viên khoa sử chúng tôi có khi cũng chỉ là ...giả định vậy.
Hồi ấy công nghệ quay cóp chưa tinh vi như bây giờ nhưng không thể nói là không ció mặc dù ít nghiêm trọng hơn bây giờ bởi sinh viên khi ấy coi thi lại, lưu ban, điểm kém là điều hiển nhiên như trời xanh vẫn thế không ghanh đua, không cần điểm cao chót vót, miễn là có chữ trong đầu. Hơn nữa các loại máy móc điện tử chưa có, máy phô-tô sản xuất phao chưa có, bọn chúng để nguyên cả cuốn vở dưới ngăn bàn, nếu cô giáo coi chặt thì chắc chắn không làm ăn gì được, có đứa xé vở. có đứa vẽ bản đồ, sơ đồ bằng bút không mực kẹp bên dưới nhưng nói chung chỉ là mẹo vặt không tinh vi và khó qua mặt thầy cô.Nhóm sinh viên triết học xuất sắc năm học 1989-1990 chụp ảnh lưu niệm bên nhà thí nghiêm đang ngổn ngang vật liệu (Đố ai phát hiện ra Y là thằng nào trong ảnh?)
Trường Đại học Sư phạm có ít nhất là một nửa sinh viên nữ nên các trường đại học xung quanh như Nông nghiệp 3 Bắc Thái (nay là đại học nông lâm Thái Nguyên, Đại học Y Thái Nguyên, Đại học Công nghiệp ...vốn dương thịnh âm suy coi đây là một rừng hoa, có bổn phận phải đến chiêm ngưỡng chinh phục do đó cũng không thiếu những vụ ẩu đả lẫn nhau vì tranh giành bạn gái, có điều là hồi ấy chưa nhiều báo mạng, báo lá cải và blog như bây giờ nên chuyện ấy vẫn còn kín tiếng ở đâu biết đó. Quà tặng hồi ấy chỉ là những bó hoa một loại hái vội cho vào túi ni lon cắt thủng hai đầu, những bưu thiếp của Liên Xô bán đầy ngoài chợ rẻ như cho. Vào dịp 8/3 hay 20/11 thì có thêm món pháo rất vui tai,vài em cháy quần áo cũng vì pháo của các anh. Sinh viên ngày ấy có cái đồng hồ Liên Xô hay cái xe đạp Thống Nhất đã là cực kỳ sang trọng rồi, không như bây giờ nào son phấn hàng hiệu, túi xách, giầy dép, iphone, ipad, ipod..đắt tiền. Bởi thế bạn cùng phòng thông cảm với nhau hơn, thân thiện hơn, đoàn kết hơn ít chia đẳng cấp. Trong lớp, dù hiếm hoi nhưng thi thoảng cũng có chuyện cầm nhầm tiền của bạn vì tiền thì đồng nào chả giống đồng nào, he he. Y cũng đã được dự một cuộc kiểm điểm nảy lửa vì mất 200 ngàn, thời đó đủ mua 1 chiếc xe đạp Thống Nhất khung võng, ơn giời rồi cũng tìm ra, trả lại, xin lỗi nhau rồi xí xóa không có kỷ luật hay ẩu đả gì. Khổ chủ là Tiến Vòng quê Bình Liêu, thủ phạm thì xin được giữ kín sống để dạ, chết mang theo, he he.
Sinh viên cũng đủ trò nghịch dại tỷ như cái Thúy ở Hà Bắc thách nhau ăn hết 10 quả trứng vịt hay mấy thằng con trai rủ nhau xăm chữ bằng pin thối và nhựa xương rồng, Hùng "ngạnh" thì xăm đầu con hổ theo hình ở đuôi đèn pin Trung Quốc, Hoàng "tréc" xăm năm sinh, Tiến "vòng" xăm hình mặt trời, sau này đứa nào cũng hối hận nhưng không thể xóa nổi, cũng may không đứa nào bị nhiễm trùng...Hồi ấy không biết do ở bẩn hay do nước mà cả con trai con gái đều bị hắc lào. Trên ô thoáng cửa sổ đầy lọ thuốc bôi hắc lào D.E.F, A.S.A tối đến chúng vạch ra bôi cho nhau xót cháy da thịt , có đứa con gái không chịu được rú lên như "trái cắn gió" he he
Hồi Y mới nhập trường chỉ có quán cô Hồng giáo vụ khoa Lý vợ thầy Lâm Tiến bán ở nhà dưới khu tập thể, một cantin ở nhà ăn và một cantin ở cổng và cô Nga vợ thầy Long khoa toán bán nước buổi tối ở giữa khoa Hóa và khoa Sử, chấm hết, muốn mua gì thì ra chợ Đồng Quang hay bách hóa Mỏ Bạch. Thời buổi tiền không có, thị trường mang nặng tính bao cấp nên lũ sinh viên chủ yếu là ngủ và học, không có chơi bời hay hoạt động gì ra hồn như sau này. Giọng Y ồm ồm nên được giao làm phát thanh viên kiêm biên tập viên chương trình truyền thanh của Liên chi đoàn cũng nhiều sáng tạo ra phết, tỉ như đọc các mẩu chuyện vui tự sáng tác hay cập nhật thông tin tình hình chiến tranh I-Rắc, (nói cho oại vậy chức thực chất là đọc thời sự trang 4 báo Nhân dân (Hồi đó báo Nhân dân chỉ có 4 trang không màu) thế mà các con giời đã đói bụng lại hiếu kỳ há mồm ra nghe mỗi khi loa truyền thanh của trường trên đỉnh nóc nhà ăn rống lên ông ổng "Đây là chương trình truyền thanh của Liên chi đoàn khoa Lịch sử", he he, vui như phết!
Cứ mỗi cuối tuần Y lại rủ mấy thằng bạn ra nhà ông anh ở đầu ngã ba đê Mỏ Bạch đi trường Đại học Nông nghiệp để hộ ông ấy đào đất san đồi, mục đích là tiêu bớt sức lực và được ăn no, lại có rượu nhấm nháp hi hi, thật đấy. Chỗ ấy đầu hươu mõm nai nhưng nay thì tấc đất tấc vàng...âu cũng có công nhỏ bé của mấy thằng bạn Y. Công việc là xả đất đồi xuống rồi dùng xe ba gác chở ra đổ xuống chỗ ao trũng vốn bị khoét xuống đắp đê Mỏ Bạch, lâu dần đất nhà bác rộng ra, ao bị lấp đi vườn càng thêm rộng. Xin nói thêm, chủ nhà vốn là giáo viên cùng dạy và kết nghĩa với cụ thân sinh ra Y, còn gọi là cụ Tiêu, cụ thường tự hào là cùng tuổi với Xê - Au - Xê - Cu, lãnh tụ một nước xã hội chủ nghĩa, thời thế thay đổi, ông ta bị lật đổ và coi là nhà độc tài, sau bận đó không thấy cụ Tiêu khoe nữa, ngày Y đi công tác được hơn chục năm thì cụ mất.
Giáo viên trong trường thời ấy là những nhà sư phạm thực sự và đáng kính, bỏ qua một bên gánh nặng cơm áo gạo tiền, tình thầy trò vô cùng trong sáng và thầy hết lòng vì trò. Còn nhớ thầy Lâm Xuân Đình đi Liên Xô về người ta mua toàn bàn là, chậu nhôm, nồi áp xuất, áo bay còn thầy khi ra sân bay đón chỉ có 2 tạ sách Liên Xô! Bù lại giờ giảng của thầy thì dù là Sử dân tộc học nhưng vô cùng hấp dẫn Y còn nhớ đến tận bây giờ. Thầy Bèn khoa Văn số đào hoa nên có câu: "Lương Bèn nói, Lương Bèn nghe
Làm thân con gái chớ nghe Lương Bèn...
Thầy Vũ Châu Quán dạy Văn hay đến nỗi tả mùa thu học trò như ngửi thấy mùi cốm phảng phất...hay có lẽ cũng một phần do cái dạ dày bọn chúng đã to mà chẳng mấy khi được đổ đầy! Thầy Trần Ngọc dạy Khảo cổ học đại cương xong, bọn học trò khoa Sử đi đâu thấy bờ tre mảnh sành cũng nghĩ ngay đến nào là niên đại, đồng vị phóng xạ, đồng vị phấn hoa...tranh luận rôm rả và muốn lấy ngay cuốc xẻng mà đào cả mả bố người ta lên, và nhiều giai thoại nữa về các cô, các thầy yêu quý. Ngày ấy mới le lói đổi mới, cái chuẩn mực "Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa, Tổng hợp bỏ qua..." cũng bắt đầu lung lay, nhưng Sư phạm thì vẫn không được quan tâm nên lũ sinh viên như Y vẫn có tự trào: "Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm", "Thầy giáo - tháo giày đi chân đất" vì nghề này, trường này "Ăn như sư, ở như phạm". Các kỹ sư tâm hồn tương lai quả là nhếch nhác...(Có thể còn nữa)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)