Chắc nhiều người trong chúng ta đã thuộc hoặc từng nghe câu ca dao:
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại nói lời đắng cay
Nhưng
chắc không phải ai cũng biết câu ca dao chất chứa nỗi buồn ai oán ấy
lại liên quan đến sự chia ly sinh tử của hai mẹ con bà Phi Yến thế kỷ
XIX.
Sử chép rằng thứ phi của chúa Nguyễn Ánh là bà Phi Yến còn có
tên là Răm sinh cho Nguyễn Ánh được Hoàng tử đặt tên là Cải. Cải còn nhỏ
tuổi nhưng do tình hình đất nước loạn lạc đã bị chính cha đẻ là Nguyên
Ánh ném xuống biển mà chết ở đảo Côn Sơn (Côn Đảo). Bà Phi Yến không đi
theo chồng mà treo cổ tự tử. Dân làng trên đảo lập chùa An Hải để thờ
Bà.
Câu ca dao trên cũng ra đời từ đó.
Chùa An Hải ở Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), nơi thờ bà Phi Yến
Kính báo: Hôm nay bận quá, khi nào rỗi rãi như mỗ đây xin ngồi lâu chép tỉ mỉ để hầu bà con.
"Con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm !...". (Lời con trai lão Hạc)
Người theo dõi
Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011
HỆ THỐNG DI TÍCH DI CHỈ VĂN HÓA BẮC SƠN Ở LẠNG SƠN
Thưa bà con, cách đây
hơn một thập kỷ, y có được huyện Bắc Sơn và Sở Văn hóa Thông
tin tỉnh Lạng Sơn mời dự hội thảo khoa học nhân dịp kỷ niệm 60 năm Khởi
nghĩa Bắc Sơn 27/9/1940 - 27/9/2000. Đã mười năm có lẻ, vật đổi sao dời
nhưng cái gì đã là lịch sử thì vẫn còn nguyên giá trị.
y mời bà con đọc lại:
"Nói có sách...
Văn hóa Bắc Sơn là nền văn hóa muộn hơn văn hóa Hòa Bình rất tiêu biểu và có vị trí quan trọng trong thời đại đồ đá ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Nền văn hóa này được các nhà khảo cổ học biết đến và đặt tên từ đầu thế kỷ XX – địa danh một huyện ở phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn: Bắc Sơn.
...mách có chứng"
y mời bà con đọc lại:
Bắc Sơn là một
huyện nằm ở phía Tây Nam tỉnh Lạng Sơn, phía Tây giáp huyện Võ Nhai, Thái
Nguyên, phía Nam giáp Hữu Lũng, Bắc giáp Bình Gia và đông giáp Văn Quan. Bắc
Sơn có địa hình dốc nghiêng về phía Tây Nam và nằm trong vòng cung núi đá
vôi Bắc Sơn – Ngân Sơn chạy từ Cao Bằng qua Lạng Sơn. Lạng Sơn cùng với
Cao Bằng là hai tỉnh có nhiều núi đá vôi nhất trong khu vực Việt Bắc. Về
mặt hóa học thì thành phần chủ yếu của đá vôi là các bon nát can xi (CaCO2
). Các bon nát khi tác dụng với a xít thì bị a xít ăn mòn. Khi đá vôi gặp
nước mưa là nước có tính chất a xít nhẹ nên đá vôi bị hòa tan nhưng quá trình
này xảy ra rất chậm vì thế trải qua hàng chục triệu năm, nước mưa chảy thấm vào
các kẽ nứt của núi đá vôi đã tạo thành những hang động rộng và những đường hầm
ngoắt ngoéo có nước chảy trong đó. Chính vì nguyên nhân trên mà sơn khối đá vôi
Bắc Sơn – Ngân Sơn chạy qua tỉnh Lạng Sơn thuộc các huyện Bắc Sơn, Bình Gia,
Văn Quan, Chi Lăng, Hữu Lũng ước chừng 1500km2 có vô số các hang động, mái đá
tạo thành nhiều danh thắng tuyệt đẹp và là chỗ trú ngụ sinh sống rất tốt của
người tiền sử trên đất Lạng Sơn. Có những di chỉ như hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai
(xã Tân Văn, huyện Bình Gia) có niên đại cách ngày nay tới 475.000 năm.
"Nói có sách...
Văn hóa Bắc Sơn là nền văn hóa muộn hơn văn hóa Hòa Bình rất tiêu biểu và có vị trí quan trọng trong thời đại đồ đá ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Nền văn hóa này được các nhà khảo cổ học biết đến và đặt tên từ đầu thế kỷ XX – địa danh một huyện ở phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn: Bắc Sơn.
Văn hóa Bắc
Sơn được biết đến lần đầu tiên ở Lạng Sơn do nhà địa chất học người Pháp
H.Mansuy phát hiện và khai quật từ năm 1906 và công bố năm 1909 ở hang Thẩm
Khoách gần phố Bình Gia. Đến những năm 1922 – 1923 H.Mansuy lại tiếp tục khai
quật ở một số di chỉ khác như hang Kéo
Phầy, Đồng Thuộc và khai quật lại hang phố Bình Gia.
Sau đợt khai
quật này M. Colani lại tiếp tục có phát hiện và tiến hành khai quật lại nhiều
di chỉ khác ở Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Chi Lăng… Dựa vào các kết quả đã thu
được với những kết quả thám sát và nghiên cứu của cộng sự M.Colani, H. Mansuy
đã nghiên cứu và công bố một loạt các địa điểm phát hiện di tích văn hóa Bắc
Sơn năm 1925 và nhận định rằng văn hóa Bắc Sơn thuộc về sơ kỳ thời đại đồ đá
mới có niên đại cách ngày nay 8.000 đến 10.000 năm. Di chỉ văn hóa Bắc Sơn phân
bố ở khu vực Đông Bắc với mật độ khá dày tại các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái
Nguyên và cả Hà Giang, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An v.v…Cuộc khai quật mới đây
của Viện Khảo cổ học (Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia) năm 1999
tại di chỉ Đán Cúm (Hà Giang) cũng đã tìm thấy những công cụ có dấu vết mài của
nền văn hóa Bắc Sơn đó là “Dấu Bắc Sơn”.
Những nghiên
cứu và công bố tư liệu của các nhà khảo cổ học “nghiệp dư” H.Mansuy và M.Colani
(Họ vốn là các nhà địa chất học) không tránh khỏi các sai lầm về học thuật, tuy
nhiên sau này đã được các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
hoàn chỉnh. Liên tục trong những năm 1961, 1963, 1967, 1968, 1984, 1996, 1997
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, trường Đại học Tổng hợp, Viện Khảo cổ học, Bảo
tàng tổng hợp Lạng Sơn đã tiến hành nhiều đợt khảo sát quan trọng về văn hóa
Bắc Sơn đặc biệt là cuộc khai quật di chỉ Hang Dơi xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn năm
1984 đã thu được những kết quả quan trọng.
...mách có chứng"
H. Mansuy và
M.Colani đã phát hiện và công bố có đến 43 địa điểm của nền văn hóa Bắc Sơn
phân bố chủ yếu ở Lạng Sơn và một số di chỉ ở Thần Sa – Võ Nhai, Thái Nguyên.
Tại các địa điểm này các nhà khoa học đã thu được nhiều di vật có những di vật
giống như các di vật đã thu được từ các di tích của nền văn hóa Hòa Bình như
công cụ chặt thô, nạo chày nghiền, bàn nghiền, công cụ hình hạnh nhân…Có những
di vật được xem như những công cụ tiêu biểu của nền văn hóa Bắc Sơn là rìu Bắc
Sơn, dấu Bắc Sơn. Những chiếc rìu mài lưỡi này xuất hiện vào loại sớm nhất ở
châu Á và thế giới với số lượng rất lớn. Trình độ phát triển kỹ thuật chế tác
công cụ và đồ trang sức đã ở mức độ cao và tiêu biểu nền nông nghiệp trồng trọt
đã phát triển và manh nha sự thuần dưỡng động vật chuyển từ kinh tế “chiếm
đoạt” sang kinh tế sản xuất.
Xin trở lại
vấn đề di tích văn hóa Bắc Sơn ở Bắc Sơn nói riêng và Lạng Sơn nói chung. Trên
địa bàn phân bố của các di chỉ văn hóa Bắc Sơn hồi đầu thế kỷ các nhà khảo cổ
Pháp phát hiện và thống kê được 43 địa điểm trong đó phần lớn phân bố ở Lạng
Sơn (ở các huyện Chi Lăng, Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng). Theo số liệu thống kê
của Bảo tàng tổng hợp Lạng Sơn năm 1996 thì tính đến thời điểm này có hơn 40
điểm ở các huyện Bình Gia 3 địa điểm, huyện Bắc Sơn 4 địa điểm, huyện Hữu Lũng
15 địa điểm, huyện Văn Quan 5 địa điểm, huyên Chi Lăng 4 địa điểm và 8 địa điểm
chưa xác định được ở đâu do tài liệu của H.Mansuy và M. Colani để lại không ghi
cụ thể và có phần thất lạc. Một số địa danh lại bị các nhà khoa học phiên âm từ
tiếng dân tộc và đọc chệch đi nên rất khó xác định vị trí và tiếp tục nghiên
cứu.
Năm 1996 các
nhà khảo cổ lại phát hiện thêm hai di tích văn hóa Bắc Sơn ở huyện Bắc Sơn là
Lân Xóm và Tin Vận nhưng mới là thám sát chứ chưa khai quật. Duy chỉ có Hang
Dơi ở thôn Kha Hạ, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn đã khai quật, nghiên cứu tỉ mỉ khoa
học và quy mô- các hiện vật thu được lưu giữ tại Viện Khảo cổ học, Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Bắc Sơn.
Hầu hết các di
tích văn hóa Bắc Sơn trên đất Lạng Sơn đều là các mái đá và hang đá thấp gần
nguồn nước như sông, suối, tầng văn hóa dày và đã được các nhà khoa học trước
kia và hiện nay thám sát và khai quật. Nhìn chung cửa hang cao, thoáng, tầng
văn hóa dầy, hầu như di chỉ nào cũng có vỏ ốc, xương động vật thải ra từ quá
trình ăn uống của người cổ. Tầng văn hóa dày, các di vật thu được khá phong phú
như rìu mài, dấu Bắc Sơn, nạo, công cụ chặt đập. Những công cụ, di vật này đã
được Tổng cục địa chất tiếp quản của thực dân Pháp và giao cho Bảo tàng Lịch
sử. Các di vật này đều được Bảo tàng tỉnh phối hợp với các huyện, thị đã kiểm
kê khoa học bước đầu, lập hồ sơ danh mục và quy hoạch hướng bảo vệ, tu bổ, tôn
tạo và đăng ký sếp hạng, quản lý bảo vệ cấp tỉnh, cấp Bộ. Trong những năm tới
sẽ tiếp tục tiến hành khai quật một số địa điểm có dấu hiệu giá trị khoa học
cao như ở Ngườm Sâu, Nà Ngụm (Chi Lăng). Lập Hồ sơ khao học trình Bộ Văn hóa
Thông tin xếp hạng di chỉ Hang Dơi xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn. Các di chỉ đã được
kiểm kê đều được các đại phương có kế hoạch bảo vệ và chưa có di tích văn hóa
Bắc Sơn nào bị xâm phạm hoặc sử dụng vào mục đích khác. Một số di tích đã được
cắm biển báo, biển bảo vệ và điền tên trên Bản đồ du lịch Lạng Sơn. Để phát huy
tốt tác dụng và giá trị của các di chỉ của nền văn hóa Bắc Sơn nổi tiếng, nền
văn hóa đã được mệnh danh là “cách mạng
đá mới” (Revolution Neolithique) cần phải đầu tư cho việc tiếp tục phát
hiện, nghiên cứu, tu bổ tôn tạo và xã hội hóa công tác bảo tồn di tích, nâng
cao trình độ cán bộ văn hóa ở các địa phương, lập bản đồ di tích khảo cổ nền
văn hóa Bắc Sơn trên đất Lạng Sơn có đối sánh trong khu vực. Làm được như vậy
là chúng ta đã thiết thực kỷ niệm một thế kỷ phát hiện nền văn hóa này./.
Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011
ĐÁNH BI Ở LÀNG CHIỀNG
Thưa bà con! Trước khi đọc bài này, nếu bà con chưa đọc bài Đánh sảng ở làng Chiềng thì như
mỗ đây xin bà con hãy đọc thêm bài "Đánh sảng ở Làng Chiềng"( List of villages in Chiang) để có cái nhìn tổng quan hơn về các trò chơi dân gian ở Làng Chiềng ở đường link dưới đây. Đa tạ bà con!
Đánh sảng ở làng Chiềng ( List of villages in Chiang)
Trẻ con làng
Chiềng còn hay chơi trò đánh bi cũng rất ham. Ngày ấy không có bi ve, bi thủy
tinh mua được như bây giờ. Bi được ghè đẽo bằng đá xanh vì làng Chiềng có dãy
núi đá vôi chạy qua đến tận Thần Sa, Sảng Mộc, Nghinh Tường nơi có phong cảnh
hang và thác nước Phượng Hoàng, thác nước Mưa rơi và di chỉ khảo cổ Thần Sa nổi
tiếng đã được cấp bằng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Đá ghè bi là loại
đá vôi có màu xanh thẫm, chọn viên đá ít vết nứt rồi lấy dao cùn chặt nhẹ và
đều vào xung quanh viên đá; khi đã thành hình hài viên bi thì phải gõ đều và
nhẹ hơn. Khi viên bi đã tròn là đến công đoạn xoáy bi để đánh bóng cho nhẵn và
tròn đều. Có hai cách đó là lấy vỏ ốc nhồi chọc vỡ một lỗ nhỏ hơn đường kính
của viên bi sau đó cho viên bi vào lỗ đó rồi dùng hai tay xoáy đi xoáy lại cho
viên bị tròn và nhẵn hoặc cũng có đứa lấy lọ đựng thuốc peniceline bỏ đi để
xoáy bi. Làm cật lực chừng 2 buổi trưa là chúng đã có viên bi mới. Những lò chế
tác bi thường là dưới bụi tre buổi trưa hè nắng gắt; bọn trẻ ghè ghè, đẽo đẽo
lẫn tiếng rít của vỏ ốc vào đá xanh chói tai và tiếng kể chuyện, trêu ghẹo cãi
nhau, tiếng ve kêu vang cả bờ tre; lắm khi làm mất giấc ngủ trưa của người lớn
thường bị la mắng. Nhưng trưa nào cũng vậy cứ ăn cơm xong không kéo nhau ra vực
Là Lìu chơi pháo đài thì chúng lại chơi bi, ghè bi râm ran cả góc làng. Chơi bi
ở làng Chiềng cũng có khi cả thanh niên và trung niên tham gia, cách chơi không
phải kiểu ăn bi như bây giờ mà chỉ có một viên bi nếu là đá xanh có khi chơi cả
mùa, hết mùa bi sang mùa sảng, mùa khăng chúng lại vớt lăn lóc góc nhà, năm sau
đến vụ lại đi tìm.
Làng Chiềng
Luật chơi như thế
này: Trên một bãi đất bằng phẳng, khoét một lỗ hình tròn như lòng chảo đường
kính chừng 1 gang tay gọi là lồ, một
vạch ngang cách xa chừng 2 mét gọi là bít
hay mít. Để xác định người được đi
trước, người tham gia chơi phải đứng ở mít, bàn chân phải ngang hoặc dưới vạch
kẻ, nhô lên sẽ bị coi là bét tức là xếp
thứ cuối cùng hoặc đầu tiên từ dưới lên. Có thể đứng thẳng hoặc nhao người về
phía trước để tung viên bi về phía lồ (Chỉ có lợi cho những thằng dài người).
Ai vào được lồ thì người đó thắng và thứ tự được xác định cho nhưng ai có bi ở
gần lồ hơn, nếu cùng vào lồ hay ngang nhau thì có thể tung lại nhưng thường là
ai đi trước người đó thắng nên sau khi hiệu lệnh bắt đầu tất cả cùng tung bi về
phía trước.
Sau khi xác định
xong thì người thắng bắt đầu đi bằng cách phải bắn bi đối phương đi xa ít nhất
là 3 gang tay gọi là tê, sau đó phải
tung bi vào lồ gọi là chuy, tiếp tục
bắn vào bi đối phương sao cho khoảng cách giữa 2 viên bi cũng là 3 gang tay thì
được xác định là ra và đối phương
thua. Nếu nhiều người chơi thì được tiếp tục bắn bi người tiếp theo. Nếu bị
hỏng một trong các bước thì trò chơi dừng lại và đối phương hoặc người có thứ
tự kế tiếp được chơi.
Chơi bi thắng thua do kỹ thuật bắn, kết quả
không ăn bi của nhau mà để tính chiến tích phong đẳng cấp trong làng và người
xem cổ vũ, khâm phục không đỏ đen, không sát phạt, cá cược. Bãi đất chơi bi
làng tôi ở đỉnh đồi, trung tâm làng cạnh bụi tre giữa các nhà ông Hoan, ông Khôi,
ông Tép. Nay thì bãi đất đó bị thu hẹp lại do các nhà xác định chủ quyền, có
nhà rào tre, có nhà xây tường bao bằng gạch. Xưa, cứ mỗi trưa hè trẻ con cả
làng kéo nhau ra đánh bi, người làng rỗi việc ra xem, hóng mát, cổ vũ hò reo. Đấy
cũng là công trường thủ công chế tác bi lớn nhất làng, muốn tìm con hay vợ tìm
chồng, chồng tìm vợ cứ ra bờ tre có nhóm chơi bi là thấy. Chúng chơi có khi quên
cả giờ chăn trâu hay đi làm đồng…
Chăn trâu thổi sáo. Nguồn: internet
Thời ấy, nay
không còn nữa, trẻ con giờ chơi bi ve, bi thủy tinh mua 2000 quan tiền cụ Hồ được hàng chục viên để ăn
thua của nhau. Không đứa nào còn biết ghè bi nữa. Trâu bò cũng bán sạch vì
người ta đã cày máy, muốn tìm trẻ con thì ra quán điện tử internet hay quán bi –a
đầu làng hoặc gọi điện thoại di động. Làng đang chuyển mình lên phố…
Lạng Sơn, vào hạ.
ĐÁNH BI Ở LÀNG CHIỀNG
Thưa bà con! Trước khi đọc bài này, nếu bà con chưa đọc bài Đánh sảng ở làng Chiềng thì như
mỗ đây xin bà con hãy đọc thêm bài "Đánh sảng ở Làng Chiềng"( List of villages in Chiang) để có cái nhìn tổng quan hơn về các trò chơi dân gian ở Làng Chiềng ở đường link dưới đây. Đa tạ bà con!
Đánh sảng ở làng Chiềng ( List of villages in Chiang)
Trẻ con làng
Chiềng còn hay chơi trò đánh bi cũng rất ham. Ngày ấy không có bi ve, bi thủy
tinh mua được như bây giờ. Bi được ghè đẽo bằng đá xanh vì làng Chiềng có dãy
núi đá vôi chạy qua đến tận Thần Sa, Sảng Mộc, Nghinh Tường nơi có phong cảnh
hang và thác nước Phượng Hoàng, thác nước Mưa rơi và di chỉ khảo cổ Thần Sa nổi
tiếng đã được cấp bằng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Đá ghè bi là loại
đá vôi có màu xanh thẫm, chọn viên đá ít vết nứt rồi lấy dao cùn chặt nhẹ và
đều vào xung quanh viên đá; khi đã thành hình hài viên bi thì phải gõ đều và
nhẹ hơn. Khi viên bi đã tròn là đến công đoạn xoáy bi để đánh bóng cho nhẵn và
tròn đều. Có hai cách đó là lấy vỏ ốc nhồi chọc vỡ một lỗ nhỏ hơn đường kính
của viên bi sau đó cho viên bi vào lỗ đó rồi dùng hai tay xoáy đi xoáy lại cho
viên bị tròn và nhẵn hoặc cũng có đứa lấy lọ đựng thuốc peniceline bỏ đi để
xoáy bi. Làm cật lực chừng 2 buổi trưa là chúng đã có viên bi mới. Những lò chế
tác bi thường là dưới bụi tre buổi trưa hè nắng gắt; bọn trẻ ghè ghè, đẽo đẽo
lẫn tiếng rít của vỏ ốc vào đá xanh chói tai và tiếng kể chuyện, trêu ghẹo cãi
nhau, tiếng ve kêu vang cả bờ tre; lắm khi làm mất giấc ngủ trưa của người lớn
thường bị la mắng. Nhưng trưa nào cũng vậy cứ ăn cơm xong không kéo nhau ra vực
Là Lìu chơi pháo đài thì chúng lại chơi bi, ghè bi râm ran cả góc làng. Chơi bi
ở làng Chiềng cũng có khi cả thanh niên và trung niên tham gia, cách chơi không
phải kiểu ăn bi như bây giờ mà chỉ có một viên bi nếu là đá xanh có khi chơi cả
mùa, hết mùa bi sang mùa sảng, mùa khăng chúng lại vớt lăn lóc góc nhà, năm sau
đến vụ lại đi tìm.
Làng Chiềng
Luật chơi như thế
này: Trên một bãi đất bằng phẳng, khoét một lỗ hình tròn như lòng chảo đường
kính chừng 1 gang tay gọi là lồ, một
vạch ngang cách xa chừng 2 mét gọi là bít
hay mít. Để xác định người được đi
trước, người tham gia chơi phải đứng ở mít, bàn chân phải ngang hoặc dưới vạch
kẻ, nhô lên sẽ bị coi là bét tức là xếp
thứ cuối cùng hoặc đầu tiên từ dưới lên. Có thể đứng thẳng hoặc nhao người về
phía trước để tung viên bi về phía lồ (Chỉ có lợi cho những thằng dài người).
Ai vào được lồ thì người đó thắng và thứ tự được xác định cho nhưng ai có bi ở
gần lồ hơn, nếu cùng vào lồ hay ngang nhau thì có thể tung lại nhưng thường là
ai đi trước người đó thắng nên sau khi hiệu lệnh bắt đầu tất cả cùng tung bi về
phía trước.
Sau khi xác định
xong thì người thắng bắt đầu đi bằng cách phải bắn bi đối phương đi xa ít nhất
là 3 gang tay gọi là tê, sau đó phải
tung bi vào lồ gọi là chuy, tiếp tục
bắn vào bi đối phương sao cho khoảng cách giữa 2 viên bi cũng là 3 gang tay thì
được xác định là ra và đối phương
thua. Nếu nhiều người chơi thì được tiếp tục bắn bi người tiếp theo. Nếu bị
hỏng một trong các bước thì trò chơi dừng lại và đối phương hoặc người có thứ
tự kế tiếp được chơi.
Chơi bi thắng thua do kỹ thuật bắn, kết quả
không ăn bi của nhau mà để tính chiến tích phong đẳng cấp trong làng và người
xem cổ vũ, khâm phục không đỏ đen, không sát phạt, cá cược. Bãi đất chơi bi
làng tôi ở đỉnh đồi, trung tâm làng cạnh bụi tre giữa các nhà ông Hoan, ông Khôi,
ông Tép. Nay thì bãi đất đó bị thu hẹp lại do các nhà xác định chủ quyền, có
nhà rào tre, có nhà xây tường bao bằng gạch. Xưa, cứ mỗi trưa hè trẻ con cả
làng kéo nhau ra đánh bi, người làng rỗi việc ra xem, hóng mát, cổ vũ hò reo. Đấy
cũng là công trường thủ công chế tác bi lớn nhất làng, muốn tìm con hay vợ tìm
chồng, chồng tìm vợ cứ ra bờ tre có nhóm chơi bi là thấy. Chúng chơi có khi quên
cả giờ chăn trâu hay đi làm đồng…
Chăn trâu thổi sáo. Nguồn: internet
Thời ấy, nay
không còn nữa, trẻ con giờ chơi bi ve, bi thủy tinh mua 2000 quan tiền cụ Hồ được hàng chục viên để ăn
thua của nhau. Không đứa nào còn biết ghè bi nữa. Trâu bò cũng bán sạch vì
người ta đã cày máy, muốn tìm trẻ con thì ra quán điện tử internet hay quán bi –a
đầu làng hoặc gọi điện thoại di động. Làng đang chuyển mình lên phố…
Lạng Sơn, vào hạ.
Thứ Năm, 5 tháng 5, 2011
Linh hoạt trong tổ chức kỳ họp
Nhân dịp chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 sẽ diễn ra vào ngày Chủ nhật 22/5 tới, như
mỗ đây đăng lại bài viết đã đăng trên báo Người đại biểu nhân dân, nay
là báo Đại biểu nhân dân số ra ngày 25/4/2007 (Tại địa chỉ này: http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=13016) để bà con hiểu hơn về hoạt động của cơ quan dân cử.
"Đường xa, gánh nặng..."
"Đường xa, gánh nặng..."
Linh hoạt trong tổ chức kỳ họp HĐND
25/04/2007
Sau
các kỳ họp, HĐND thường tổ chức rút kinh nghiệm. Ngoài những khiếm
khuyết liên quan đến công tác phục vụ của văn phòng dễ mắc và cũng dễ
khắc phục, còn có nhiều vấn đề kỳ họp nào cũng vướng mà rất khó thay
đổi, đặc biệt là việc sử dụng quỹ thời gian thế nào để bảo đảm việc điều
hành ngân sách theo quy định, tại các kỳ họp cuối năm.
Luật
Tổ chức HĐND và UBND quy định, HĐND họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ vào giữa
năm và cuối năm. Kỳ họp giữa năm thường được tổ chức vào trung tuần
tháng 7. Lúc đó, kỳ họp Quốc hội cũng vừa kết thúc, các ĐBQH là lãnh đạo
chủ chốt của tỉnh cũng đã trở về địa phương để tham dự kỳ họp; Việc xê
dịch thời gian trong một, hai tuần cũng không ảnh hưởng gì lớn. Rắc rối
là ở kỳ họp cuối năm, theo Điều 45 Luật Ngân sách Nhà nước thì HĐND cấp
tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách cấp tỉnh
năm sau trước ngày 10.12 năm trước. Cũng theo đó thì HĐND cấp dưới
quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách năm sau của
cấp mình chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày HĐND cấp trên trực tiếp quyết
định dự toán và phân bổ ngân sách.
Việc quy định như vậy là để thực hiện tốt việc điều hành ngân sách ở địa phương, nhưng khi thực hiện thì rất khó bảo đảm về thời gian, vì việc phân bổ ngân sách phải chờ kỳ họp cuối năm, sau khi QH phân bổ NS cho các địa phương. Trên cơ sở đó, các địa phương mới tiến hành cân đối ngân sách của địa phương và phân bổ tiếp cho cấp huyện và các ngành. Sau khi có phương án phân bổ ngân sách cũng như kế hoạch năm triển khai đến các địa phương, ngành thì các ngành tham mưu của UBND tỉnh phải trình lãnh đạo UBND và Thường trực Tỉnh ủy xem xét. Có những vấn đề cần phải đưa ra Ban Thường vụ Tỉnh ủy, thậm chí sau khi Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh cho ý kiến thì mới trở thành phương án chính thức. Chỉ khi có văn bản chính thức thì các Ban HĐND tỉnh mới tiến hành thẩm tra. Sau khi thẩm tra các báo cáo, tài liệu mới được gửi đến từng đại biểu. Phải rập khuôn theo quy trình như vậy nên xảy ra tình trạng ngày họp đã cận kề mà báo cáo, tài liệu vẫn chưa hoàn tất. Đại biểu hỏi, Văn phòng giục nhưng các ngành hình như cũng đã quá quen với hoàn cảnh, nên cứ bình tĩnh rà soát cho kỹ lưỡng để tránh sai sót, mặc dù... sáng mai đã khai mạc kỳ họp! Đã có tiền lệ, kỳ họp nào cũng vướng như vậy nên cũng có tỉnh sáng kiến chia kỳ họp làm hai đợt: Cứ khai mạc, phân bổ ngân sách trước, rồi có thời gian hoàn thành nốt các công việc khác và tiếp tục kỳ họp. Cũng là một ý hay. Có tỉnh cứ phân bổ ngầm với nhau qua một cuộc họp nào đó, hoặc qua văn bản mà không nhất thiết là kỳ họp HĐND. Khi tiến hành kỳ họp thì coi như việc đã rồi, vừa thong thả để lo chu đáo những việc khác lại vừa “lách” được luật. Những tỉnh có lãnh đạo chủ chốt (Bí thư, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND) là đại biểu Quốc hội thì thường phải chờ Quốc hội họp xong mới tiến hành họp HĐND. Kỳ họp Quốc hội thường kết thúc vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 nên việc chuẩn bị cho kỳ họp HĐND ở địa phương lại càng phải khẩn trương gấp rút và tranh thủ xin ý kiến của lãnh đạo. Cũng vì vậy, các kỳ họp cuối năm của QH có phiên thường vắng nhiều do lãnh đạo địa phương phải về để chỉ đạo họp HĐND tỉnh.
Các dự thảo nghị quyết, các báo cáo về tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản của UBND tỉnh cũng không nằm ngoài tình trạng chung. Sau khi Thường trực HĐND tỉnh họp liên tịch với UBND, các Ban của HĐND và UBMTTQ, ra thông báo dự kiến nội dung kỳ họp là các cơ quan hữu quan bắt tay ngay vào chuẩn bị nội dung kỳ họp. Các báo cáo chuyên ngành (không phải của TAND và VKSND) được UBND giao cho các cơ quan chuyên môn và đôn đốc thực hiện đúng thời gian nhưng cũng phải đúng trình tự, thủ tục. Các báo cáo, đề án, tờ trình và dự thảo nghị quyết của tài chính, kế hoạch đều phải được trình UBND trước khi chuyển sang cho các Ban của HĐND tỉnh để thẩm tra. Rất nhiều người, nhiều khâu phải “vận hành” để thực hiện cho xong các báo cáo với yêu cầu bất di bất dịch là số liệu và cách đánh giá phải thống nhất trong mọi văn bản về cùng một lĩnh vực. Thời gian chỉ có trên dưới một tháng, trong khi Luật Tổ chức HĐND và UBND quy định: “Tài liệu cần thiết của kỳ họp HĐND phải được gửi đến đại biểu HĐND chậm nhất là 5 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp”. Vì vậy, đòi hỏi các ngành tham mưu phải nhanh nhạy, chính xác trong việc chuẩn bị.
Có cách nào để khắc phục được tình trạng trên? Câu trả lời ở đây chỉ có thể là các ngành tham mưu, các Văn phòng phục vụ HĐND, UBND và Văn phòng Tỉnh ủy phải phối hợp nhịp nhàng để các nội dung được chuẩn bị nhanh và sớm thông qua UBND; Những vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo tầm vĩ mô cần sớm được Thường trực hoặc Ban Thường vụ thông qua đúng quy định. Thực tế cho thấy, vừa qua có tỉnh rất uyển chuyển, linh hoạt, chia kỳ họp làm hai đợt hoặc phân bổ ngân sách trước kỳ họp. Dù làm theo cách nào thì mục đích cũng là thực hiện đúng pháp luật mà vẫn hiệu quả, không cứng nhắc.
Đặng Ân
Việc quy định như vậy là để thực hiện tốt việc điều hành ngân sách ở địa phương, nhưng khi thực hiện thì rất khó bảo đảm về thời gian, vì việc phân bổ ngân sách phải chờ kỳ họp cuối năm, sau khi QH phân bổ NS cho các địa phương. Trên cơ sở đó, các địa phương mới tiến hành cân đối ngân sách của địa phương và phân bổ tiếp cho cấp huyện và các ngành. Sau khi có phương án phân bổ ngân sách cũng như kế hoạch năm triển khai đến các địa phương, ngành thì các ngành tham mưu của UBND tỉnh phải trình lãnh đạo UBND và Thường trực Tỉnh ủy xem xét. Có những vấn đề cần phải đưa ra Ban Thường vụ Tỉnh ủy, thậm chí sau khi Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh cho ý kiến thì mới trở thành phương án chính thức. Chỉ khi có văn bản chính thức thì các Ban HĐND tỉnh mới tiến hành thẩm tra. Sau khi thẩm tra các báo cáo, tài liệu mới được gửi đến từng đại biểu. Phải rập khuôn theo quy trình như vậy nên xảy ra tình trạng ngày họp đã cận kề mà báo cáo, tài liệu vẫn chưa hoàn tất. Đại biểu hỏi, Văn phòng giục nhưng các ngành hình như cũng đã quá quen với hoàn cảnh, nên cứ bình tĩnh rà soát cho kỹ lưỡng để tránh sai sót, mặc dù... sáng mai đã khai mạc kỳ họp! Đã có tiền lệ, kỳ họp nào cũng vướng như vậy nên cũng có tỉnh sáng kiến chia kỳ họp làm hai đợt: Cứ khai mạc, phân bổ ngân sách trước, rồi có thời gian hoàn thành nốt các công việc khác và tiếp tục kỳ họp. Cũng là một ý hay. Có tỉnh cứ phân bổ ngầm với nhau qua một cuộc họp nào đó, hoặc qua văn bản mà không nhất thiết là kỳ họp HĐND. Khi tiến hành kỳ họp thì coi như việc đã rồi, vừa thong thả để lo chu đáo những việc khác lại vừa “lách” được luật. Những tỉnh có lãnh đạo chủ chốt (Bí thư, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND) là đại biểu Quốc hội thì thường phải chờ Quốc hội họp xong mới tiến hành họp HĐND. Kỳ họp Quốc hội thường kết thúc vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 nên việc chuẩn bị cho kỳ họp HĐND ở địa phương lại càng phải khẩn trương gấp rút và tranh thủ xin ý kiến của lãnh đạo. Cũng vì vậy, các kỳ họp cuối năm của QH có phiên thường vắng nhiều do lãnh đạo địa phương phải về để chỉ đạo họp HĐND tỉnh.
Các dự thảo nghị quyết, các báo cáo về tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản của UBND tỉnh cũng không nằm ngoài tình trạng chung. Sau khi Thường trực HĐND tỉnh họp liên tịch với UBND, các Ban của HĐND và UBMTTQ, ra thông báo dự kiến nội dung kỳ họp là các cơ quan hữu quan bắt tay ngay vào chuẩn bị nội dung kỳ họp. Các báo cáo chuyên ngành (không phải của TAND và VKSND) được UBND giao cho các cơ quan chuyên môn và đôn đốc thực hiện đúng thời gian nhưng cũng phải đúng trình tự, thủ tục. Các báo cáo, đề án, tờ trình và dự thảo nghị quyết của tài chính, kế hoạch đều phải được trình UBND trước khi chuyển sang cho các Ban của HĐND tỉnh để thẩm tra. Rất nhiều người, nhiều khâu phải “vận hành” để thực hiện cho xong các báo cáo với yêu cầu bất di bất dịch là số liệu và cách đánh giá phải thống nhất trong mọi văn bản về cùng một lĩnh vực. Thời gian chỉ có trên dưới một tháng, trong khi Luật Tổ chức HĐND và UBND quy định: “Tài liệu cần thiết của kỳ họp HĐND phải được gửi đến đại biểu HĐND chậm nhất là 5 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp”. Vì vậy, đòi hỏi các ngành tham mưu phải nhanh nhạy, chính xác trong việc chuẩn bị.
Có cách nào để khắc phục được tình trạng trên? Câu trả lời ở đây chỉ có thể là các ngành tham mưu, các Văn phòng phục vụ HĐND, UBND và Văn phòng Tỉnh ủy phải phối hợp nhịp nhàng để các nội dung được chuẩn bị nhanh và sớm thông qua UBND; Những vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo tầm vĩ mô cần sớm được Thường trực hoặc Ban Thường vụ thông qua đúng quy định. Thực tế cho thấy, vừa qua có tỉnh rất uyển chuyển, linh hoạt, chia kỳ họp làm hai đợt hoặc phân bổ ngân sách trước kỳ họp. Dù làm theo cách nào thì mục đích cũng là thực hiện đúng pháp luật mà vẫn hiệu quả, không cứng nhắc.
Chúc mừng Vương Đắc Huy
Chân dung ThS Vương Đắc Huy
Nhân dịp Thạc sỹ Văn hóa dân gian Vương Đắc Huy, Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Tổng hợp, Văn phòng UBND tỉnh Lạng Sơn nhận Quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch chuyển công tác về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam từ ngày 01/5/2011.
Như mỗ đây nồng nhiệt chúc mừng Thạc sỹ Vương Đắc Huy và chúc Vương đồng chí thành công trong lĩnh vực công tác mới (Và cũng là cũ).
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết đang đi công tác ở nước ngoài hôm 18/ 4/2011 cũng viết thư chúc mừng Thạc sỹ Vương Đắc Huy nguyên văn như sau:
Ân thân mến,
Huy về Bảo tàng Lịch sử là đúng ngành, tốt quá rồi. Ân và Huy không phải băn khoăn gì nữa đâu. Về đâu cũng là để hợp lý hoá gia đình thôi mà. Mình gửi lời chúc mừng Huy và chúc bạn ấy thành công ở môi trường công tác mới nhé.
NM Thuyết
Thứ Hai, 2 tháng 5, 2011
Ăn cho ích vào thân hay là chuyện cơm nguội lên ngôi
Thưa bà con, thiết tưởng mấy ngày nghỉ cũng nên dành vài phút để cười
cho sảng khoái. Xin hầu bà con câu chuyện xảy ra đã khí lâu nhưng y
mới nhặt được.
Chuyện là thế này:
Có hai vợ chồng Thầy ký nuôi một thằng ở, ngày nào cũng để nó ăn cơm nguội. Thằng ở tinh quái, nghĩ ra một kế xỏ chủ nhà. Một hôm cô ký đang ngồi ở đằng sau, thằng ở nói rằng: "Mình ở nhà này mới một tháng, chỉ ăn cơm nguội mà dái to như thế này". Cô ký nghe thấy, cứ lẳng lặng đi ra. Từ đấy, bữa nào cũng bắt chồng ăn cơm nguội, cơm sốt thì cho thằng ở ăn. Chồng lấy làm lạ, hỏi mãi, vợ không nói. Sau tức quá, nói to lên rằng: “Tại làm sao mà cứ bắt người ta ăn cơm nguội mãi thế”. Vợ bất đắc dĩ nói rằng: “Ăn cho ích vào thân, chứ tại làm sao mà căn vặn mãi”.
Vĩ thanh: Sau khi chuyện này lan truyền, rất rất nhiều các quý bà, quý cô mà tôi biết đều trở nên chịu khó, sáng dậy nấu cơm trước khi đến nhiệm sở để trưa về mới ăn và tuyên truyền với các đức lang quân rằng phải tích cực ăn cơm nguội để luyện Y - ô - ga cho sức khỏe tốt và cơm nguội sẽ tạo ra những cholestreol tích cực,có thể phòng chống ung thư, gout, chống lão hóa....chẳng biết có phải thế không? Hàng xóm nhà tôi dạo này ăn cơm nguội suốt!
Các bạn thấy sao?
Tháp Nhạn, Tuy Hòa tháng 4/2010
Chuyện là thế này:
Có hai vợ chồng Thầy ký nuôi một thằng ở, ngày nào cũng để nó ăn cơm nguội. Thằng ở tinh quái, nghĩ ra một kế xỏ chủ nhà. Một hôm cô ký đang ngồi ở đằng sau, thằng ở nói rằng: "Mình ở nhà này mới một tháng, chỉ ăn cơm nguội mà dái to như thế này". Cô ký nghe thấy, cứ lẳng lặng đi ra. Từ đấy, bữa nào cũng bắt chồng ăn cơm nguội, cơm sốt thì cho thằng ở ăn. Chồng lấy làm lạ, hỏi mãi, vợ không nói. Sau tức quá, nói to lên rằng: “Tại làm sao mà cứ bắt người ta ăn cơm nguội mãi thế”. Vợ bất đắc dĩ nói rằng: “Ăn cho ích vào thân, chứ tại làm sao mà căn vặn mãi”.
Vĩ thanh: Sau khi chuyện này lan truyền, rất rất nhiều các quý bà, quý cô mà tôi biết đều trở nên chịu khó, sáng dậy nấu cơm trước khi đến nhiệm sở để trưa về mới ăn và tuyên truyền với các đức lang quân rằng phải tích cực ăn cơm nguội để luyện Y - ô - ga cho sức khỏe tốt và cơm nguội sẽ tạo ra những cholestreol tích cực,có thể phòng chống ung thư, gout, chống lão hóa....chẳng biết có phải thế không? Hàng xóm nhà tôi dạo này ăn cơm nguội suốt!
Các bạn thấy sao?
Tháp Nhạn, Tuy Hòa tháng 4/2010
Thứ Năm, 28 tháng 4, 2011
Xông lên đi, bọn đổng lý văn phòng!
Đổng lý văn phòng là chức danh của người điều khiển công việc hành
chính, sự vụ của một cơ quan cao cấp (Tất nhiên là thời trước). Nay thì
nhắc đến văn phòng nhiều người nghĩ ngay đến việc "hầu hạ" hay chuyên
"bưng, bê, kê, đặt" "Cờ, đèn, kèn, hoa" hay thời bao cấp thì là "Đánh
chó, treo đèn, ken lòng lợn..." là công việc vui vẻ, đọc báo và uống
rượu cả ngày. Nói là vậy nhưng cũng thấy khối tay Thư ký trưởng thành
hoặc thay thế chủ cũ. Trong lịch sử cũng từng có anh Thư ký Đoàn đại
biểu Quốc hội làm lên đến chức Ủy viên Trung ương Đảng, Bí Thư Tỉnh ủy,
Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội của một
tỉnh biên ải. Tự ty đấy, nhưng đôi lúc cũng le lói tự hào. Nhất là kết
quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 mới đây ở các tỉnh. Trong đội ngũ lãnh
đạo Văn phòng, lãnh đạo các Phòng và chuyên viên của Văn phòng Đoàn đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh rất nhiều anh thăng tiến, tin
vui tới tấp báo về. Có anh Chánh Văn phòng cơ cấu lên đến Phó trưởng
Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách và cao hơn nữa, Hội đồng nhân dân
thì có nhiều anh lãnh đạo Văn phòng lên Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Uỷ viên Thường trực Hội đồng nhân dân, nhiều anh làm trưởng, phó các Ban
của Hội đồng nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương. Có anh
làm trưởng, phó các Ban của Đảng cấp tỉnh, dăm ba anh đi "hạ phóng"
xuống cấp huyện. Trông lên cao nữa cũng có khối anh...à quên...ông vào
"Bờ cờ tờ". Có vị hoạn lộ thênh thang nếu không nửa đường đứt gánh thì
cũng ngồi vào vị trí mà khi kinh lý các tỉnh có trống rong cờ mở, có xe
"phú - lít" hụ còi chạy nhong nhong phía trước.
Trước là anh loong toong bàn giấy cắm mặt vào màn hình máy tính, gõ gõ sửa sửa, giúp việc báo cơm, mở cửa xe cho sếp thì nay đi giám sát lại xem các sếp mần ăn ra răng? To ra trò! Nhiều anh chợt nhìn xuống cái bụng mình xem có to không, liếc trộm xung quanh rồi ngắm dáng đi của mình xem đã ra dáng sếp chưa?. Nào, cờ đã đến tay rồi, hãy xông lên hỡi bọn đổng lý văn phòng! Phất cờ cho ra phất!. Rất mừng cho các chiến hữu thăng tiến nhưng chỉ xin nhắn nhủ các sếp hãy thương lấy anh em tạp dịch - bọn đổng lý văn phòng và nhớ rằng các sếp cũng đã từng làm Văn phòng đấy nhá!
Xem thêm:Những ứng cử viên ĐBQH khóa XIII là "dân văn phòng"
Cập nhật tin bầu cử ĐBQH
Những cây Dầu cổ thụ trong khuôn viên Tòa thị chính tỉnh Bình Dương được trồng từ thời Pháp (Nguồn gốc của tên Thủ Dầu Một - "Muốn biết thì ở lại đây đêm nay")
Trước là anh loong toong bàn giấy cắm mặt vào màn hình máy tính, gõ gõ sửa sửa, giúp việc báo cơm, mở cửa xe cho sếp thì nay đi giám sát lại xem các sếp mần ăn ra răng? To ra trò! Nhiều anh chợt nhìn xuống cái bụng mình xem có to không, liếc trộm xung quanh rồi ngắm dáng đi của mình xem đã ra dáng sếp chưa?. Nào, cờ đã đến tay rồi, hãy xông lên hỡi bọn đổng lý văn phòng! Phất cờ cho ra phất!. Rất mừng cho các chiến hữu thăng tiến nhưng chỉ xin nhắn nhủ các sếp hãy thương lấy anh em tạp dịch - bọn đổng lý văn phòng và nhớ rằng các sếp cũng đã từng làm Văn phòng đấy nhá!
Xem thêm:Những ứng cử viên ĐBQH khóa XIII là "dân văn phòng"
Cập nhật tin bầu cử ĐBQH
Những cây Dầu cổ thụ trong khuôn viên Tòa thị chính tỉnh Bình Dương được trồng từ thời Pháp (Nguồn gốc của tên Thủ Dầu Một - "Muốn biết thì ở lại đây đêm nay")
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)