Làng Chiềng nằm bên trái Quốc lộ 1B Thái Nguyên - Lạng Sơn, phía bắc của
xã Lâu Thượng trước là tổng Lâu Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
(Lúc bé tôi vẫn thấy ông nội tôi khấn vào ngày giỗ, tết...Thái Nguyên
phủ, Vũ Nhai châu, Lâu Thượng tổng, làng Chiềng thôn...) Là địa bàn sinh
sống của người Kinh có nguồn gốc từ các tỉnh đồng bằng lên nhập cư từ
những năm giữa của thế kỷ XIX gồm các họ Nguyễn, Trần, Dương... hiện
làng có khoảng 100 nóc nhà, gấp đôi so với hồi giữa thế kỷ XX. Thế đất
của làng nhìn từ đỉnh núi Bãi Chuối xuống hình con rùa à chết, quên ...Cụ Rùa
chứ có cả đầu, đuôi và 4 chân. Thầy địa lý nói dân ở làng con rùa này
thì chậm phát triển, muôn đời lam lũ, nghèo khó, chỉ có nhà nào ở cổ hay
vai rùa thì con cái mới khấm khá, học hành đỗ đạt. Chẳng biết có phải
thế không mà sau đó có một nhà chuyển ra cổ sát tai rùa cất nhà ở nhưng
rồi sau đó không lâu lại phải chuyển đi chẳng biết vì lý do gì. Làng Cụ
Rùa từ đó đến nay vẫn yên bình nhưng chưa thấy thịnh vượng cho lắm. Vì
là làng người Kinh và dây rớt tàn dư phong kiến nên vẫn trọng nam khinh
nữ có tư tưởng "nữ nhi ngoại tộc" nên ai cũng cố đẻ để có thằng chống
gậy. Phụ nữ trong làng khi đi lấy chồng thì gọi theo tên chồng ví như
Chị Ngô, Chị Khoai; có con thì gọi theo tên con chị Đào, chị Mận, cô Mơ,
hay đơn giản là Bố Đĩ, Mẹ Cu. Đến khi có cháu thì gọi theo tên cháu là
ông thằng nọ, bà đứa kia, tên khai sinh chỉ được gọi khi chết thầy cúng
vào sổ gọi hồn bởi vậy gọi là tên cúng cơm hay tên củ cho nên sống trong
làng mà bị người khác nhất là trẻ con mà mà réo tên củ thì lấy thế làm
nhục lắm. Đường vào làng Chiềng, nay đã bê tông hóa
Ngôn
ngữ của làng cũng có lắm sự khác biệt ví dụ thức ăn nói chúng trong bữa
ăn bất kể rau thịt, canh gì thì đều gọi là canh; hôm nay nhà cháu ăn
cơm canh gì? Mời bác gắp canh ăn đi (ông khách Hà Nội lên trố mắt ngạc
nhiên, canh thì gắp thế quái nào được nhỉ. Bố vợ, mẹ vợ thì gọi là ông
vãi, bà vãi (không phải ông sư, bà vãi trong chùa). Điếc thì gọi là lòi
mà đi ngủ thì cũng gọi là đi lòi. Đi đồng có thể là đi làm đồng mà cũng
có thể là ...đi nặng đấy...vân vân và vân vân. Trước tết đi tảo mộ thì
gọi là quét chạp mời tổ tiên về ăn tết. Sau tết tiễn các cụ đi không gọi
là hóa vàng mà gọi là cúng đưa đảng. Từ đảng
còn được chỉ vị trí trang trọng chỗ cửa sổ phía trên bàn thờ thường là
nơi tiếp khách. Nhà có việc ai là người có vai vế mới được ngồi mâm cơm
trên đảng, cho nên còn có từ láy là đảng cửa.Làng
có đình thờ thành hoàng nhưng không có miếu thờ thần, người dân cũng vô
thần hàng năm chỉ giỗ tết mới thắp hương tổ tiên, nhiều người báng bổ
thánh thần nhưng không thấy làm sao cả. Vị trí trước kia là Đình làng
bọn trẻ con đến nô đùa, phóng uế ra đấy nhưng người lớn cũng không coi
đó là việc quan trọng phải nhắc nhở. Tôi chỉ thấy người làng sợ ma gà,
ma gà thì một số gia đình bị cho là có ma gà. Người ấy mà đến nhà vay
tiền hay thóc chẳng hạn mà không được đáp ứng thì dứt khoát đêm xuống
trẻ con nhà ấy sẽ khóc tuột ruột, tuột gan cho mà xem. Chỉ khi nào sang
nhà đó nói khéo và cho mượn thì đứa trẻ sẽ thôi khóc nín tắp lự. Thực hư
không biết vì cũng chỉ toàn nghe kể lại, không biết thế nào. Xứ đồng
Châu Úy, ngày xưa nơi Châu Úy bị cách mạng chém cổ, trước đây nghe đồn
khi chiều tà có oan hồn, mặc áo trắng đi dọc lên Bãi Lai đánh cờ với ông
Huynh (Ông này tự tử treo cổ lên cây ở Bãi Lai), rồi thì Ao Mỏ có con
Rắn có mào màu đỏ quăng mình ào ào trên mặt hồ dài hàng chục mét, to
bằng bắp chân người lớn, đã có ông Cột, bà Kèo, chú Chầy.. đi lên hang
lấy củi về tận mắt nhìn thấy lúc sẩm tối cứ hư hư, thực thực, nhất là
khi Ao Mỏ có người chết đuối thì câu chuyện càng trở nên bí hiểm, tối
đến phụ nữ, trẻ con không dám ra vườn đi đái mà câu thẳng từ trên sàn
nhà xuống. Không biết thật hay bịa có nhà con dâu còn tương đúng đầu bố
chồng đang lui cui ở dưới gầm sàn.Làng cũng có tư tưởng kỳ thị người
dân tộc, gọi là bon "Pựưt". Người dân tộc xung quanh thì gọi dân làng
là bọn "Keo". Giờ đây không còn phân biệt nữa vì làng cũng có nhiều
người dân tộc đến làm dâu. Người Kinh lên sau này thì gọi là bọn khai
hoang (Nhưng làm gì có đất trống nữa mà khai hoang). Ai đến làm rể ở
làng thì gọi là bọn "vá làng", ăn cỗ phải ngồi mâm dưới. Chỉ dân bản địa
lâu năm trong làng khống biết ở từ bao giờ mới được dân trong làng,
trong cả khu vực coi trọng, kính nể thực sự. Các xứ đồng làng tôi còn
đậm dấu ấn thời phong kiến, kháng chiến tầng tầng văn hóa, lớp lớp lịch
sử. Chỗ này là Trại Gái, chỗ kia là Đồng Đồn (Đồn Pháp), Rồi thì Sân
Tập, Cột Cờ, Châu Úy. Rồi rất nhiều tên bắt đầu từ chữ Là (Có lẽ bắt
nguồn từ Nà, tiếng Tày là ruộng ra chăng?) Như Là Tin, Là Phái, Là Tái,
Là Thâm...Đỉnh làng có một cái kẻng bằng vỏ quả bom đại treo lên cây
nhãn nay đã bóng loáng. Thời Hợp tác xã nông nghiệp làm ăn tập thể tiếng
kẻng theo xã viên đi ra đồng và các việc tập trung dân quân, chia thóc,
đi họp, tiếng kẻng ấy cũng vang lên cùng với tiếng loa truyền thanh
dưới trời mưa tầm tã khi hay tin Bác Hồ mất...và báo động khi có máy
bay, nhà cháy. Tôi chỉ được nghe tiếng kẻng báo động đúng một lần khi
đập Ao Mỏ vỡ, tiếng kẻng 3 hồi liên tiếp thúc giục, mọi người nháo nhác
chạy ra nhưng chỉ đứng xem không cứu được đập vì nước mạnh quá. Thời
đánh Mỹ do làng gần cầu Rắn nên cũng bị bom Mỹ rải mấy lần, cả bom bi
mà mẹ tôi chứng kiến kể lại. Máy bay B52 ầm ì rồi gầm réo trên trời, mọi
người đang làm đồng vứt nón trắng bỏ chạy nấp vào các mô đất, bờ ruộng.
Bom tấn nổ inh tai, bom bi lụp bụp. Máy bay qua mọi người lại dậy làm
đồng và phát hiện cô Mão bị thương rồi ra đi mãi mãi. Tối hôm ấy cả làng
đốt đuốc đóng áo, đào huyệt, đưa ma, sợ hôm sau Mỹ lại đến ném bom. Cả
đêm làng xóm lao xao, không ngủ, căm hờn. Làng đưa cô Mão an táng ở xứ
đồng Sân Tập. Lại nói thêm hồi đó làng phải làm lán sơ tán vào trong
chân hang. Nhà ở ngoài làng thì phải đào hầm trú ẩn, nhà tôi cũng có 2
cái tang - xê đầu nhà giờ vẫn còn. Bom nổ, người đi công tác, người đi
chiến trường miền Nam, ở nhà làng vẫn đẻ nhiều vì đạn bom, nếu không đẻ
ngộ nhỡ chết đứa này còn đứa khác.Năm 1998, tôi đã có lần hỏi Giáo
sư sử học Trần Quốc Vượng khi tôi là học trò của ông ở Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân văn Quốc gia tên làng Chiềng có nghĩa là gì thì Giáo
sư Vượng trả lời rằng Chiềng có nghĩa là to. Không biết có to không
nhưng thời phong kiến mấy đời Chánh tổng đều là người họ Nguyễn ở làng
Chiềng nắm giữ. Người làng Chiềng chiếm giữ các xứ đồng lớn hạng nhất
đẳng điền bờ xôi ruộng mật. Có người suýt bị phong là địa chủ thời cải
cách ruộng đất. Nay thì các cánh đồng bị băm nát bét để làm nhà, làm
trang trại và mua
đất đầu cơ chờ mở rộng thị trấn đến đó (Chỉ còn cách vài trăm mét). Các
thôn bản xung quanh như Đồng Chăn, Là Dương, Cây Hồng...đều là người dân
tộc Nùng thỉnh thoảng có cả dân tộc Tày có nguồn gốc từ các huyện Bình
Gia, Văn Quan.. Lạng Sơn di cư xuống từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, nhất là trong những năm chiến tranh biên giới 1979. Bởi vậy
văn hóa của làng xen lẫn ngụ cư và bản địa, giữa dân tộc thiểu số và
thuần Việt. Làng xưa kia cũng có đình to lắm, bởi vậy vẫn còn tên đình
như xứ ruộng Đồng Đình (Nhà ông bà Kim - Cảnh hiện nay) hay xứ đồng Đình
Găng. Dĩ nhiên là Đình Cả cũng nằm cách đó không xa. Làng như một bức
tranh xã hội thu nhỏ, kẻ đỗ đạt khoa bảng cũng có, người thành danh cũng
có; có công chức, có liệt sỹ, thương binh công hiến cho đất nước, người
ly tán vào miền nam, ra nước ngoài có, lấy chồng Trung quốc có, tù đày,
nghiện hút cũng đủ cả. Người giàu có xe hơi, có nhà ở Hà Nội, kẻ nghèo
thì đứt bữa nhà nước phải trợ cấp cũng không là cá biệt. Nhưng tựu trung
về cơ bản văn hóa của làng vẫn giữ được bản sắc yên bình, hòa thuận. Cả
làng ở nhà sàn, gia súc, gia cầm nhốt riêng không để ở dưới gầm sàn,
nhưng hiện nay chỉ còn nhà ông Chính Trưởng thôn, (gọi theo tên con là
nhà bố Hiếu) và nhà ông Nghĩa bên cạnh đó là còn ở nhà sàn, còn lại đã
phá hết để làm nhà đất hoặc nhà xây gạch hiện đại. Nhà ông Chính được
làm từ thời ông cụ thân sinh ra ông là ông giáo Vỵ (Người lớn tuổi và
những người chức sắc ở huyện đều biết, nhiều người trong số họ là học
trò của ông) từ năm 1972. Bộ cột nhà bằng gỗ nghiến lõi được lấy từ rừng
Vũ Lễ Bắc Sơn, chở về bằng xe ô tô Giải phóng của trường Thiếu nhi Vùng
cao Việt Bắc năm 1970, bằng tuổi con trai út ông giáo Vỵ. Bộ cột ấy
ngâm xuống ao hai năm sau mới dựng, nên lên màu đen bóng như sừng. Cứ 4
cột thì được xẻ vuông vắn từ một cây gỗ nghiến. Bộ cột ấy đẹp nhất làng
vì chiều cao, kích thước và chất lượng gỗ không chê vào đâu được.Nhà Trưởng thôn Nguyễn Văn Chính, một trong hai ngôi nhà sàn còn sót lại ở làng Chiềng hiện nay (chụp 17/01/2010)
Đàn
ông trong làng mặc áo ba túi, quần chân què vải gụ, đi guốc gỗ hoặc
tre, quai bằng dây chuối hay dây rừng, đi làm đồng hay đi rừng thường
xuyên đeo dao trong bao gỗ gọi là phẻn.
Đàn bà mặc áo bà ba, vấn khăn từ thời trẻ, quần vải phíp hoặc lụa màu
đen ống rộng, bởi thế nên các bà, các cô lắm khi ra bờ tre vén quần đứng
như đàn ông để làm cái việc muôn đời nay vẫn ngồi làm. Đi xa hay đi đâu
có việc hệ trọng rất kỵ ra ngõ gặp gái. Nếu gặp gái mà lại là người vía
nặng thì phải quay về chờ lúc sau mới đi. Người làng cũng kiêng kỵ
nhiều thứ như kiêng chim sa, cá nhảy; kiêng đặt tên trùng nhau trong
dòng họ, kiêng hái quả vào buổi tối, đàn bà có mang thì phải kiêng vô số
thứ nhưng nay cũng có vẻ giản tiện hơn đi rồi. Làng còn có chuyện
vui nay còn lưu truyền mãi. Có một ông nọ có lẽ ra vẻ đài các quạ không
ăn thịt trâu, có thể khứu giác của ông ta mẫn cảm với mùi thịt trâu nên
không thích ăn và nói là không ăn được. Một hôm có ông ưa nhậu muốn chơi
khăm nên mới mua thịt trâu rồi dùng nhiều gia vị như tỏi,sả, xương sông
để chế biến cho át mùi rồi sai con đến mời ông nọ về nhắm rượu bảo rằng
mới mua được mấy cân thịt nai ở mãi chợ Ngả Hai tỉnh Lạng Sơn kia.Chén
tạc chén thù rồi mấy đĩa tướng thịt trâu bay sạch đằng nào. Cơm nước
xong xuôi, gia chủ mới thủng thẳng bảo rằng thịt quan bác xơi hôm nay là
thịt con trâu chết rét mới mua ở La Mạ sáng nay đấy. Ông khách ọe mãi
mà không ra được có lẽ vì lúc ăn ông ra sức khen thịt nai ngon và nể cái
tình của gia chủ đã chu đáo, khéo mời. Nghe đâu sau đó hai ông còn tức
nhau mãi.Cả làng có duy nhất một cái giếng ở đầu làng. Chiều chiều
cả làng ra xếp hàng gánh nước và trao đổi thông tin mà nay bọn trẻ gọi
là "buôn dưa lê". Con gái nhà ai chửa hoang, lợn nhà ai chết, nhà ông
Thuổng tháo ao, nhà bà Chõng đã hết gạo từ mấy hôm nay hay con rắn nó
chui vào buồng nhà đĩ Gạo.... đều từ cái giếng đầu làng mà ra cả. Mỗi
tối trăng lên, giếng làng lại thành nơi hẹn hò, tình tự của bao đôi trai
gái. Dân quanh vùng còn lưu truyền câu hát:Giếng làng Chiềng vừa trong vừa mátĐường làng Chiềng lắm cát dễ điQuan, hôn, tang, tế cơ bản vẫn theo sách Thọ Mai gia lễ.Trẻ
con ở làng lớn lên tự nhiên như củ khoai củ sắn, chẳng ốm đau mấy hồi.
Đứa nào cũng biết bơi, biết đánh lươn, mò cua bắt ốc, đi hang lấy củi.
Sáng ra chúng đến trường, trưa về thì tuổi nào việc ấy, có khi chăn trâu
cắt cỏ cũng có khi làm công việc của người lớn, chiều buông thì ra suối
chơi pháo đài hoặc đá bóng, đánh sảng, đánh khăng theo mùa. Thích nhất
là chơi pháo đài ở vực Là Lìu. Bọn trẻ mà có khi cả những đứa đã mười
chín, đôi mươi chia phe ở trên bờ vực để vật nhau ở đám bùn đất, bên
nào bị ném xuống vực trước thì thua. Hai bên xáp vào nhau, lăn lộn, bấu
víu vào rễ cây, mô đất hò hét vang trời. Có đứa khắp người đen bùn đất
chỉ còn hở hai con mắt. Chúng chơi cho đến tối chạng vạng chưa biết đằng
về.Mỗi khi trong làng có người nằm xuống thường báo hiệu bằng ba
phát súng và cũng như vậy khi di quan và khi hạ huyệt. Như trên đã nó,
việc tang chế cơ bản theo sách Thọ mai gia lễ, chỉ kể thêm là làng toàn
người Kinh nên khi có đám thường phải mời thầy mo Nùng vì đám ma mà
không có thầy cúng với tiếng thanh la, chũm chọe, xóc nhạc thì...không
vui. Đám tang ông nội tôi năm 1980 mời ông mo Hiển ở xóm Cây Hồng, đến
đám tang bố tôi năm 1987 thì cũng mời ông mo Quý (Còn gọi là ông Quý
Reeng) cùng xóm ấy; đến nay cả hai ông ấy đều đã mất và truyền nghề lại
cho các con của mình. Làng có hàng phe để chuyên phục vụ từ A-Z cho tang
chủ. Mỗi hộ theo phe phải cử một người lớn để phục vụ từ lúc Trùm Phe
thông báo với kỷ luật vô cùng khắt khe. Mỗi đám hiếu như vậy hàng phe
mỗi hộ phải góp một đấu gạo tẻ (Khoảng 3,3 bơ sữa bò, dụng cụ đo lường
này hình như bây giờ ngày càng ít dùng, thay vào đó là dùng cân ki lô)
và một số tiền nhất định, không rõ bây giờ là bao nhiêu, hồi tôi chưa đi
khỏi làng tha phương cầu thực thì số tiền này là 2.000 quan tiền Cụ Hồ,
tương đương với một kg gạo tẻ loại bình thường). Sau khi đưa ma xong,
phe họp lại trước khi ăn cơm để rút kinh nghiệm. Từng sơ xuất nhỏ nhất
cũng được đưa ra mổ xẻ, có khi chì chiết nên ai cũng rất sợ các kỷ luật
của phe. Bị khai trừ phe là nối ám ảnh của làng nên ít khi có ai không
tuân thủ hàng phe, có khi sợ hơn bị khai trừ khỏi Đảng. Làng Chiềng
không có nghĩa trang mà nhà ai có người nằm xuống thì chôn luôn ở phần
đất của mình, có thể là đồi chè, ruộng, doi đất nào đó cho đến giờ vẫn
vậy không có nghĩa trang. Có nhà cải táng, có nhà không nhưng những gia
đình có điều kiện đều đã xây mộ và có ý thức quy hoạch thành các nghĩa
trang của gia đình, dòng tộc. Cũng bởi không có nghĩa trang tập trung và
địa hình không bằng phẳng nên đưa tang không dùng xe kéo hay xe ô tô mà
dùng dàn đòn để khiêng (Xem ảnh)Một đám tang ở làng Chiềng đang đưa qua ruộng đến nơi chôn cất ở xứ đồng Sân Tập (19/7/2009)

Đánh sảng,
có nơi còn gọi là đánh cù hay đánh quay. Sảng được đẽo từ gỗ cứng như
nghiến, lý nhưng thường là lõi hay củ, rễ gỗ nghiến. Đẽo sảng phải có
nghề, dao phải sắc không thì mẻ như chơi vì gỗ nghiến rất cứng, nếu đem
ngâm bùn ao vài tháng hay một năm thì càng cứng và dai hơn, gỗ chuyển
màu đen bóng. Sảng phải to và cân đối thì quay mới tít và bổ được đối
phương. Mũi sảng có khi được đóng đinh cho chắc và để hủy diệt sảng của
đối phương. Chơi sảng rất dễ, có thể 2 người hay nhiều người với các quy
ước tự thỏa thuận như kích thước sảng, sảng có đóng đinh mũi hay không,
chơi theo phe hay chơi tự do. Để là người đi trước phải qua vòng xác
định thứ tự gọi là dướng sảng,
tức là buộc một đầu dây vào ngón tay giữa rồi quấn vào đầu dưới sảng,
dùng sức giật mạnh đầu dây cho sảng quay và văng xuống đất. Trước đây
hay dùng dây sảng bằng dây đay lấy từ bao tải hoặc từ áo đông xuân xé ra
là tốt nhất nhưng áo phải mới thì dây mới chắc, xoăn lại và dài. Nhưng
thời bao cấp thì lấy đâu ra áo mới mà xé nên dây hat đứt lắm. Ngày nay
bọn trẻ có dây dù, dây ni lông và nhiều loại dây khác khó đứt lắm. Sảng
ai quay lâu hơn là thắng và cứ tính thứ tự thời gian để đến lượt. Sảng
ai chết trước thì phải đi sau cùng và bị bổ đầu tiên. Để sảng quay lâu,
ngoài kỹ thuật dướng sảng còn phải chọn chỗ phẳng, nhẵn của bãi đất sau
khi dướng phải thổi đất, bụi quanh đó và không được nuôi hay quất sảng
(tức là dùng đầu dây quất vào sảng cho quay lâu hơn)Các loại sảng (Chụp ở nhà trưởng thôn Nguyễn Văn Chính -còn có tên thời đi học là Cương)
Chân
dung Trưởng thôn làng Chiềng Nguyễn Chính tức Nguyễn Văn Chính, tên
cúng cơm và tên đi học phổ thông là Nguyễn Đặng Kim Cương

Người
chơi sảng có thể là trẻ con cũng có thể là người lớn thậm chí cả người
già và phụ nữ. Cứ buổi trưa lại tụ tập giữa làng hò reo vang trời, đất
cát cày xới mù mịt, sảng ai bị bổ vỡ hoặc chui vào giữa bụi tre thì
tiếng hò reo vọng tới chín vàn hang (Người Làng Chiềng gọi núi đá nói
chung là hang - đi lên núi thì gọi là đi lên hang). Người thua cay cú
hôm sau phải đi tìm lõi hay củ nghiến để đẽo sảng to hơn, dai hơn, thớ
gỗ quắn vào nhau thì mới không bị bổ vỡ. Trẻ con làng Chiềng ai cũng
biết đẽo sảng và chơi sảng, chúng mang theo người đi học đi chăn trâu,
đi làm đồng để có thể tỉ thí bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu, vì sảng dễ
chơi chỉ cần hai người là được. Tối về có đứa vẫn đeo sảng lủng lẳng ở
cổ cho đến khi đi ngủ. Hết mùa sảng, khi nhà nông vào vụ chúng ném sảng
xuống ao ngâm để năm sau lấy lên sảng đen bóng, ngai ngái mùi bùn - một
mùa sảng mới bắt đầu.Một
trận "huyết chiến sảng" ở giữa làng Chiềng đầu nhà trưởng thôn Chính
(Trong ảnh thấy cả người lớn, trẻ con và phụ nữ cùng tham chiến)
Mùa
sảng thường bắt đầu và kết thúc trước và sau tết nguyên đán khoảng 2
tháng, địa điểm là bãi đất giữa làng nhưng nền đất phải cứng và gần bụi
tre càng tốt
Một
buổi quét chạp mộ của gia tộc họ Nguyễn ở làng Chiềng, ngôi mộ này nằm
gần chân hang (chân núi đá) sát nhà ông Hưng cá giống Ao Mỏ
...
Có tiền mua mía đánh khăng vào mồm... (Ca dao)Đánh
khăng cũng là một trò chơi dân gian thú vị ở làng Chiềng, cũng giống
như đánh sảng, đánh khăng không chỉ dành cho trẻ con mà người lớn cũng
rất ham.Đánh khăng rất đơn giản, dụng cụ cần có dùi khăng và con
khăng. Dùi khăng dài chừng 30 đến 40 cm (Hix, đấy là tôi cứ hiện đại hóa
thế thôi, chứ làng Chiềng thì chỉ đo gang tay hoặc ước lượng) khi đánh
thì điều chỉnh bằng cách chặt bớt đi cho đến khi thấy vừa tay, đánh con
khăng bay đi xa thì thôi. Dùi khăng thường làm bằng cây găng gật nó mới
đanh và dai vì cây găng nhiều mắt chi chít mà thớ gỗ lại quẳn, không bị
gẫy hay vỡ như gỗ nghiến. Bãi đánh khăng chỉ cần một đám ruộng hay bãi
đất rộng là được. Số lượng người chơi không hạn chế, đầu tiên khoét một
cái lồ khăng để đặt con khăng vào đó, có thể chơi gẩy hay chơi gõ, Chơi
gẩy thì chỉ dành cho bọn mới tập hoặc đàn bà con gái, chơi gẩy thì cho
con khăng ngang miệng lỗ rồi lấy dùi khăng gẩy đi xa, người đỡ không đỡ
được thì thua. Để xác định người đi trước bằng cách khấc khăng: tung con
khăng lên rồi dùng dùi khăng để đỡ và hất lên liên tục càng nhiều càng
tốt. Ai được nhiều nhất là thắng cuộc và đi trước bằng cách đặt con
khăng dọc lỗ khăng rồi gõ vào một đầu cho con khăng nẩy lên rồi lấy dùi
khăng vụt mạnh cho con khăng bay xa, sau đó đặt dùi khăng ngang qua lồ.
Người đỡ mà đỡ được thì đến lượt đánh nếu không thì phải dùng tay ném về
phía lồ, nếu trúng dùi thì cũng đến lượt, nếu không trúng thì người
đánh sẽ lấy dùi khăng để đo khảng cách cho nên dùi khăng dài thì số lần
đo bị thiệt, nếu ngắn quá thì đánh sẽ không mạnh cho nên chiều dài dùi
khăng rất quan trọng. Số lần đo được sẽ làm căn cứ để tính điểm. Việc đo
cũng phải được người thua giám sát vì nhiều anh ma giao rất hay đo gian
bằng cách làm động tác nhanh không đúng vị trí đầu dùi và đếm nhầm cố
ý. Không có ai đo thật thà nên cãi nhau như mổ bò có khi bỏ cuộc và tẩn
nhau như chơi. Ai thua cuộc hoặc bị phạt nhiều thì cũng tự gây cãi cọ để
bỏ cuộc vì trò này không có trọng tài và nếu có ai đó tự nguyện đứng ra
làm trọng tài thì cũng rất hay thiên vị. Ai thua cuộc khi không đỡ
được thì bị phạt bằng cách sau: người thắng cuộc khấc khăng được bao
nhiêu cái thì dùng một tay tung con khăng lên rồi vẫn dùng tay ấy để cầm
dùi khăng đánh mạnh hết cỡ về phía trước cho đối phương đỡ lại, nếu
không đỡ được thì cứ con khăng rơi xuống vị trí nào thì người thắng lại
ra đánh tiếp cho đến hết số lần khấc khăng được. Rồi người thua phải u
thật to từ vị trí cuối cùng về lồ khăng không được đứt đoạn, nếu đứt
đoạn hay tắt ở đâu thì bị phạt một lần khăng. Người thắng cuộc hoan hỉ
cầm dùi chạy theo người thua để giám sát trong tiếng hò ro của người
xem. Chới khăng cũng rất nguy hiểm vì không tinh nhanh sẽ bị con khăng
bay vào đầu vào người, nhất là vào mắt. Đã có anh L, người trong xóm bị
hỏng một mắt vì bị con khăng bay vào. Nhưng dù vậy trò đánh khăng vẫn
không bỏ được vì nó vui và khỏe mối khi nông nhàn, âu cũng là một môn
thể thao rèn luyện sức khỏe của người làng Chiềng. Khăng thường được
chơi vào dịp tết nguyên đán hay nông nhàn vì làng Chiềng không mở hội. Đàn
ông, trẻ con chơi sảng, đánh khăng, chơi bi, đánh trận giả, . Đàn bà
con gái thì chơi chồng nụ, chồng hoa; u muỗi, đánh chuyền, đánh chắt,
thả đỉa ba ba và hát đồng dao dung dăng dung dẻ; Có lúc là: "Ông Liên Xô, bà Trung Quốc, ông đi guốc, bà đi giày, ông nhảy dây, bà đá bóng....Có lúc lại bắt chước bọn trẻ con thành thị:"Maria là nhà tạo mốtHoan-Các-Lốt là đồ bỏ điBà Ma Chi là người thâm độcCon rắn độc là mụ Lo-Ren..."....(Phim Người giàu cũng khóc)Hoặc
là đồng dao một vần như: "Bà Ba bán bánh bèo bên bờ biển bị bom bi bắn
ba bốn bận...." hay là " Đang đêm đốt đèn đi đâu đấy?. Đốt đèn đi đãi đỗ
đen, đánh đổ đèn đếch đãi được..." rồi đố nhau sáng tác thêm..rất vui.
Cũng có khi chúng đố nhau nói thật nhanh các cụm từ mà không bị vấp, lộn
là thắng như: "Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch" hoặc "Liềm chị lộn
liềm em" (Liềm là cái dụng cụ của nông dân để cắt cỏ, cắt lúa, có trấu
để cắt rất sắc, ngọt)Ngày
nay ông trưởng thôn Chính nói khi hội xuân làng thường hay tổ chức thi
đấu bóng chuyền, cầu lông, cờ tướng tôi thấy không hay. Cứ tổ chức đánh
khăng, đánh sảng và cờ lờ chó lại hay, vui và rẻ, đậm chất dân gian,
quốc hồn quốc túy. Chú thích:
Cờ l. chó còn gọi là cờ 4 quân vì chỉ có 4 quân của hai phía có thể
dùng quân bằng bất kỳ vật gì miễn là phân biệt được của hai bên. Bàn cờ
có thể vẽ ra đất cũng được là một hình vuông (xem ảnh: cái pin tiểu màu
đỏ và cái pin tiểu màu xanh cùng hàng là một bên, cái pin tiểu màu xanh
và lọ dầu Trường Sơn là một bên) với hai đường chéo tạo thành 5 vị trí.
Tại một cạnh giữa hai bên có vẽ một hình tượng trưng là cái "hoa" của con
chó cái và đường ấy không được phép đi qua hai bên đuổi nhau cho đến
khi một bên bị nhốt lại không có đường đi thì bị coi là thua và phải lấy
tay sờ vào cãi chỗ đã vẽ tượng trưng đó. Nếu không nhanh mắt và có kinh
nghiệm thì cũng rất dễ thua, còn nếu hai bên ngang sức thì cũng cò cưa
cả buổi đấy. Các bạn thử chơi xem! Hay như phết! Đến nỗi GS.TSKH Đặng Vũ Khúc khi lên làng Chiềng nghe trẻ con rủ nhau chơi cờ l. chó cũng trợn tròn mắt không biết là môn thể thao môn phái nào???
Trẻ con làng
Chiềng còn hay chơi trò đánh bi cũng rất ham. Ngày ấy không có bi ve, bi thủy
tinh mua được như bây giờ. Bi được ghè đẽo bằng đá xanh vì làng Chiềng có dãy
núi đá vôi chạy qua đến tận Thần Sa, Sảng Mộc, Nghinh Tường nơi có phong cảnh
hang và thác nước Phượng Hoàng, thác nước Mưa rơi và di chỉ khảo cổ Thần Sa nổi
tiếng đã được cấp bằng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Đá ghè bi là loại
đá vôi có màu xanh thẫm, chọn viên đá ít vết nứt rồi lấy dao cùn chặt nhẹ và
đều vào xung quanh viên đá; khi đã thành hình hài viên bi thì phải gõ đều và
nhẹ hơn. Khi viên bi đã tròn là đến công đoạn xoáy bi để đánh bóng cho nhẵn và
tròn đều. Có hai cách đó là lấy vỏ ốc nhồi chọc vỡ một lỗ nhỏ hơn đường kính
của viên bi sau đó cho viên bi vào lỗ đó rồi dùng hai tay xoáy đi xoáy lại cho
viên bị tròn và nhẵn hoặc cũng có đứa lấy lọ đựng thuốc peniceline bỏ đi để
xoáy bi. Làm cật lực chừng 2 buổi trưa là chúng đã có viên bi mới. Những lò chế
tác bi thường là dưới bụi tre buổi trưa hè nắng gắt; bọn trẻ ghè ghè, đẽo đẽo
lẫn tiếng rít của vỏ ốc vào đá xanh chói tai và tiếng kể chuyện, trêu ghẹo cãi
nhau, tiếng ve kêu vang cả bờ tre; lắm khi làm mất giấc ngủ trưa của người lớn
thường bị la mắng. Nhưng trưa nào cũng vậy cứ ăn cơm xong không kéo nhau ra vực
Là Lìu chơi pháo đài thì chúng lại chơi bi, ghè bi râm ran cả góc làng. Chơi bi
ở làng Chiềng cũng có khi cả thanh niên và trung niên tham gia, cách chơi không
phải kiểu ăn bi như bây giờ mà chỉ có một viên bi nếu là đá xanh có khi chơi cả
mùa, hết mùa bi sang mùa sảng, mùa khăng chúng lại vớt lăn lóc góc nhà, năm sau
đến vụ lại đi tìm.
Luật chơi như thế
này: Trên một bãi đất bằng phẳng, khoét một lỗ hình tròn như lòng chảo đường
kính chừng 1 gang tay gọi là lồ, một
vạch ngang cách xa chừng 2 mét gọi là bít
hay mít. Để xác định người được đi
trước, người tham gia chơi phải đứng ở mít, bàn chân phải ngang hoặc dưới vạch
kẻ, nhô lên sẽ bị coi là bét tức là xếp
thứ cuối cùng hoặc đầu tiên từ dưới lên. Có thể đứng thẳng hoặc nhao người về
phía trước để tung viên bi về phía lồ (Chỉ có lợi cho những thằng dài người).
Ai vào được lồ thì người đó thắng và thứ tự được xác định cho nhưng ai có bi ở
gần lồ hơn, nếu cùng vào lồ hay ngang nhau thì có thể tung lại nhưng thường là
ai đi trước người đó thắng nên sau khi hiệu lệnh bắt đầu tất cả cùng tung bi về
phía trước.
Sau khi xác định
xong thì người thắng bắt đầu đi bằng cách phải bắn bi đối phương đi xa ít nhất
là ba gang tay gọi là tê, sau đó phải
tung bi vào lồ gọi là chuy, tiếp tục
bắn vào bi đối phương sao cho khoảng cách giữa hai viên bi cũng là ba gang tay thì
được xác định là ra và đối phương
thua. Nếu nhiều người chơi thì được tiếp tục bắn bi người tiếp theo. Nếu bị
hỏng một trong các bước thì trò chơi dừng lại và đối phương hoặc người có thứ
tự kế tiếp được chơi.
Chơi bi thắng thua do kỹ thuật bắn, kết quả
không ăn bi của nhau mà để tính chiến tích phong đẳng cấp trong làng và người
xem cổ vũ, khâm phục không đỏ đen, không sát phạt, cá cược. Bãi đất chơi bi
làng tôi ở đỉnh đồi, trung tâm làng cạnh bụi tre giữa các nhà ông Hoan, ông Khôi,
ông Tép. Nay thì bãi đất đó bị thu hẹp lại do các nhà xác định chủ quyền, có
nhà rào tre, có nhà xây tường bao bằng gạch. Xưa, cứ mỗi trưa hè trẻ con cả
làng kéo nhau ra đánh bi, người làng rỗi việc ra xem, hóng mát, cổ vũ hò reo. Đấy
cũng là công trường thủ công chế tác bi lớn nhất làng, muốn tìm con hay vợ tìm
chồng, chồng tìm vợ cứ ra bờ tre có nhóm chơi bi là thấy. Chúng chơi có khi quên
cả giờ chăn trâu hay đi làm đồng…
Thời ấy, nay
không còn nữa, trẻ con chơi bi ve, bi thủy tinh mua 2000 quan tiền ông Cụ là được hàng chục viên để ăn
thua của nhau. Không đứa nào còn biết ghè bi nữa. Trâu bò cũng bán sạch vì
người ta đã cày máy, muốn tìm trẻ con thì ra quán điện tử internet hay quán bi –a
đầu làng hoặc móc cái mô - bai ra mà gọi. Làng đang chuyển mình lên phố…
Lạng Sơn, vào hạ.