Người theo dõi

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT TRONG ĐIỀN DÃ QUAN SÁT NGÀY LỄ HỘI CHÙA THẦY

Bất kỳ một khoa học nào nếu ta muốn tiếp cận và nghiên cứu đều phải có phương pháp. Đó có thể là những phương pháp chung nhất cho các ngành khoa học hoặc những phương pháp chỉ áp dụng cho một lĩnh vực chuyên biệt, một chuyên môn hẹp. Hoặc chỉ là một khía cạnh của một khoa học thì cũng phải có một phương pháp thích hợp thì mới đem lại hiệu quả, không cứng nhắc dùng một phương pháp cho chung mọi lĩnh vực mọi ngành nghiên cứu.
Đám rước lễ hội đền Tả Phủ (Chụp bằng ĐT Nokia 7610 nên hơi mờ)

Y đang ngồi thuyền máy tiến về lễ hội chùa Hương 26/3/2009

Đối với ngành văn hóa dân gian học cũng vậy (folkloriticque), đặc biệt văn hóa dân gian lại là một nghệ thuật nguyên hợp. Môi trường của văn hóa dân gian (Folklore) rất rộng lớn. Sinh hoạt văn hóa dân gian diễn ra mọi nơi, mọi lúc. Trong các sinh hoạt văn hóa dân gian đó thì có thể nói lễ hội dân gian (Giáo sư Đinh Gia Khánh gọi là Hội lễ dân gian) là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian rất đặc sắc và được tổ chức ở một mức độ cao. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian còn gọi đây là “thời điểm mạnh” trong đời sống văn hóa xã hội của quần chúng nhân dân.
Đúng như vậy, nước ta là một nước nông nghiệp lễ hội có một sức lôi cuốn cực kỳ lớn đối với dân chúng, ở đó con người ta được tham gia được hưởng thụ văn hóa của bản thân cộng đồng mình được hòa mình và sáng tạo ra những giá trị văn hóa. Chính bởi vì vậy mà nghiên cứu lễ hội truyền thống dân gian có một vai trò rất lớn trong nghiên cứu văn hóa dân gian.
Nghiên cứu lễ hội cho ta thấy phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gia, trò chơi dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian..v..v.Tiếp cận với lễ hội biện pháp tốt nhất là điền dã quan sát.
Quan sát cũng cần phải có phương pháp, có hai cách là quan sát tự do và quan sát thâm nhập.
Quan sát tự do hay còn gọi là quan sát không thâm nhập tức là người nghiên cứu ngồi một mình để quan sát lễ hội diễn ra theo thời gian, không gian…Mục đích của người đi lễ hội, các trò chơi, nghi lễ diễn ra nắm bắt ngôn ngữ dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian. Kết quả là thu được một hệ thống thông tin khách quan bên ngoài về lễ hội.
Cách thứ hai cũng đem lại hiệu quả cao cho nhà nghiên cứu là quan sát thâm nhập thực tế, có nghĩa là nhà nghiên cứu ngoài các thao tác quan sát, ghi chép thu thập thông tin quan sát tự do như đã nói ở trên thì còn đóng vai trò là môth người đi dự lễ hội đích thực. Hòa mình vào dòng người đi hội người nghiên cứu thấy rõ hơn mục đích, nội dung của lễ hội, của những người đi dự hội.
Người quan sát có thể phỏng vấn các lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp để tìm ra mục đích đi dự hội của họ. Ví dụ như đi lễ cầu may hay đi vui chơi giải trí hay đi nghiên cứu.v..v Phương pháp này có thể nắm bắt được thông tin sâu hơn và có con số cụ thể có thể lập được các biểu mẫu thống kê, so sánh, quan sát thâm nhập có thể nghiên cứu, miêu tả kỹ lưỡng các sinh hoạt văn hóa dân gian diễn ra trong hội. Tuy nhiên phương pháp quan sát tự do cũng có thế mạnh nhất định, đó là có cái nhìn tổng thể về lễ hội rút ra những nhận xét tổng quát và để nhận xét các mặt mạnh, yếu, đặc sắc của lễ hội, kết quả quan sát cũng mang tính khách quan hơn. Do không phải thâm nhập thực tế nên có nhiều thời gian quan sát hơn.
Cách tốt nhất để nghiên cứu là chúng ta nghiên cứu tập thể và phối hợp cả hai phương pháp hoặc nếu một người mà lễ hội mà ta quan sát trong hai hay nhiều kỳ lễ hội, từ đó tập hợp tư liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu lễ hội.
Mới đây nhất chúng tôi tiến hành đi quan sát lễ hội khi điền dã Chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Hội chùa Thầy diễn ra vào ngày 7 tháng 3 âm lịch hàng năm (Dương lịch năm nay rơi vào 22/4/1999).
Theo lời thượng tọa Thích Viên Thành hiện trụ trì chùa Thầy thì tương truyền rằng ngày 7 tháng 3 là ngày pháp sư hóa Phật. Để kỷ niệm pháp sư Từ Đạo Hạnh nhân dân đã mở hội chùa Thầy.
Chùa Thầy hiện nay có quy mô lớn ở chân núi đá Phật Tích có tên chữ là “Thiên Phúc tự”. Hệ thống chùa với kiến trúc cổ truyền Việt Nam với những đường nét của những nghệ nhân dân gian tạo nên một cách tinh tế cầu kỳ. Trước chùa có (hồ) Long trì, dưới hồ có Thủy đình là nơi biểu diễn múa rối trong hội. Hai bên chùa có hai chiếc cầu lợp theo kiểu “thượng gia hạ kiều”.
Ngoài hệ thống chùa, đền, đình, am rải rác trên dãy núi đá kỳ thú phủ đầy hoa dại còn có các hang động rất đẹp như hang Gió, hang Cắc Cớ…nơi mà hầu hết trai gái đến hội đều phải leo lên cho kỳ được:
“Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”
                                      (Ca dao)
Hội Chùa Thầy được mở trong 3 ngày từ ngày 6/3 đến 9/3 âm lịch hàng năm và ngày 7 là ngày chính lễ với các nghi lễ tín ngưỡng như tắm tượng, lau rửa bàn thờ, lễ cúng Phật, chạy đàn, lễ rước…
Đây là lễ hội tín ngưỡng nhưng hiện nay đã dân gian hóa nhiều, hai yếu tố đó đan xen hòa quyện với nhau rất khó phân định ranh giới.
Lễ tắm tượng ở Chùa Thầy được tiến hành với sự tham gia của đông đảo các nhà sư, tăng, ni, phật tử, nhân dân với tất cả lòng thành kính nghiêm trang và cầu khẩn. Không khí lúc này rất trang nghiêm, thiêng liêng và huyền bí, người tham dự và người xem như được thoát tục trút hết những lo âu đời thường tâm trí trở nên thảnh thơi trong sáng hơn.
Các đồ tế khí cũng được lau rửa kỹ lưỡng. Một nghi lễ lớn nữa là lễ cúng Phật và chạy đàn được tổ chức trang nghiêm và lộng lẫy. Nghi lễ này là một màn diễn xướng mang tính chất tôn giáo. Đây cũng là nghi lễ lôi cuốn được nhiều người xem nhất, hấp dẫn nhất.
Các trò chơi dân gian trong hội năm nay ít, chỉ còn trò tiêu biểu truyền thống là trò múa rối nước ở thủy đình diễn ra vào buổi tối.
Người đi trảy hội chùa Thầy năm nay rất đông với đủ mọi thành phần khác nhau nam, phụ, lão, ấu. Có nhiều người hành hương từ nơi xa đến, có nhiều khách tham quan du lịch và có cả những người đến nghiên cứu như chúng tôi. Nhưng đại đa số vẫn là các tăng ni phật tử và trai gái trong vùng đến trảy hội.
Các tăng, ni, phật tử đến cử Phật để lễ bái với tất cả lòng thành tâm cầu mong cho một năm mới an khang thịnh vượng.
Có thể nói đại đa số người đến hội là thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 10 đến 30 tuổi. Họ đi hội để thỏa không khí ngày hội dù rằng có thể năm nào họ cũng đi. Đường từ chùa lên núi đông cứng người chen chúc nhau đúng là “vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội…” đến nỗi chúng tôi không thể đi thăm được hết các chùa-động. Người đi chen nhau như sợ không kịp một cái gì đó. Không khí lễ hội làm cho người ta chan hòa cởi mở với nhau hơn như hưng phấn hơn. Chính vì vậy mà việc phỏng vấn của chúng tôi dễ dàng hơn. Nhiều đôi trai gái đều trả lời họ đi hội để xem các trò chơi dân gian để gắn thêm tình cảm với nhau và trong sâu thâm tâm của họ tuy không nói rõ nhưng đều cầu mong một điều gì đó tuy rất mơ hồ rằng sẽ có may mắn đến với mình.
Nhiều đôi vợ chồng đem theo cả con cái đến hội, họ nói rằng đây là một dịp picnic của gia đình để cho con cái biết lễ hội. Các trò chơi dân gian trong hội không còn phong phú như xưa cho nên người đi dự hội ít được tham gia vào các trò chơi đó nên mặc dù số lượng người đi hội rất đông nhưng thời gian ở hội của họ không nhiều. Nhiều người chỉ đi một vòng các chùa động sau đó là ra về luôn vì không biết còn làm gì hơn.
Hàng quán, dịch vụ được mở ra rất nhiều và ở tất cả các nơi trong khu vực lễ hội trong đó chủ yếu là dịch vụ ăn uống và hàng lưu niệm tạo thuận lợi cho người đi hội. Năm nay số người nước ngoài đến lễ hội cùng đông, họ đến để chiêm ngưỡng lễ hội, kiến trúc chùa và phong cảnh của chùa.
Tóm lại, từ các phương pháp quan sát điền dã trong lễ hội chùa Thầy chúng tôi đã thu thập được một số thông tin như vừa nêu trên. Đây là tiền đề, là cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp theo với những mục tiêu định hướng khác nhau. Để đi sâu nghiên cứu một khía cạnh nào đó thì cần phải có những phương pháp khác tiếp theo. Nhưng để tiếp cận với vấn đề thì quan sát trong điền dã folkore là rất cần thiết.
Y cùng các nhà nghiên cứu VHDG đi điền dã chùa Hương 2009

Xem thêm:

Georges Condominas qua đời.

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

"RẮN GIÀ RẮN LỘT..."

Người ta ai cũng phải trải qua quy luật: sinh, lão, bệnh, tử. Ấy cũng chỉ vì câu chuyện cái thằng đi xin Ngọc Hoàng đọc nhầm câu thần chú. Đáng lẽ phải đọc là "Người già người lột, rắn già rắn tụt vào hang" thì nó nghe chẳng ra nên đọc rằng: "Rắn già rắn lột, người già người tụt vào săng" (Săng là cái hòm hay là cái quan tài). Vậy là từ đó con người hết cái cơ hội trường sinh bất lão nên thời gian qua đi tạo hóa buộc con người ta phải già, phải sinh bệnh, phải cáu bẳn, phải khó tính để chóng ..tụt vào săng theo ý chỉ Ngọc Hoàng. Điều đó làm cho những người trẻ không bao giờ nghĩ tới, nhất là trong thời buổi nhịp sống gấp gáp thế này. Thế nhưng ít ai nghĩ rằng rồi cũng sẽ đến lượt mình, liệu mình có bao dung, tĩnh tâm, trẻ mãi được không? Cho nên cuộc sống là đáng quý, thời giờ là vàng ngọc cái đó không của riêng ai, ai cũng có chỉ có điều sử dụng chúng như thế nào mà thôi.

Mẹ ơi, mẹ đang nghĩ gì?

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

Y được kỹ sư chăn nuôi tặng sách lịch sử

Ha ha ha, y mới được một bác lân bàng (Không phải lân bang nhé) vốn là kỹ sư chăn nuôi tặng cuốn sách Lịch sử Đền Tả Phủ mà bác là soạn giả (Có lời đề tặng đàng hoàng) Sách in trên giấy đẹp 40 trang, khuôn khổ 14,5 x 21 do Nhà Xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tháng 6 năm 2011. Hiện ông lân bàng này vẫn theo đuổi nghề chăn nuôi, mà rất là nhân bản nhé (nhân bản theo đúng nghĩa đen chớ không phải nghĩa bóng đâu - dịch vụ này mà ở người thì nhà thương Từ Dũ người ta lấy trăm triệu một lần là rẻ rồi đó) thị phần của ông rất lớn trong tỉnh. Con cái phương trưởng ông đâm ra thích thú viết sách lịch sử. Đoạn trường xin giấy phép xuất bản của ông với các cơ quan công quyền cũng lắm gian truân. Đầu tiên ông đến gõ cửa Sở 4 T, ở đó người ta rất nhiệt tình tiếp đón và sẵn sàng giúp ông toại ý (Bộ phận một cửa cơ mà) Cơ mà, họ yêu cầu ông sang cái Sở chuyên ngành xin cho cái ý hiệp thông, thẩm định gì đó; ông vui vẻ ra về và đến Sở nọ. Nơi một cửa sở ấy tận tình giảng giải lại còn photocopy miễn phí cho ông cái văn bản quy định chi chi đó rằng cái nỳ giờ chuyển phứt sang Sở 4 T đứt đuôi con nòng nọc rồi bác ạ bọn cháu không có trách nhiệm gì đâu, thật đấy!
Ông ra về mang theo cái giấy được cho không ấy quay trở lại Sở 4T; người tiếp nghe đâu cũng cỡ Trưởng phòng lại rất vui vẻ thanh minh rằng bác ới, cái sở kia họ hiểu sai văn bản rồi, nhưng thôi được bác cứ về phường nơi bác ở và có cái đền đó xin cái xác nhận có áp triện nhé, sang đây chúng cháu sẽ cấp cho tắp lự, một cửa mà!, bác yên tâm đi. Ông lại lủi thủi về phường xin cái giấy, giải thích, nằn nỳ mãi rồi cũng được chấp nhận, ông hả hê ra về và đến thẳng Sở 4T, chắc mẩm lần này Ngài Hán Quận công đã phù hộ, nhưng vừa vào đến cửa Sở thì cái mô bai trong túi ông lại rung lên, đầu dây bên kia quan chức phường thỏ thẻ xin lỗi và xin bác cho cháu lấy lại cái giấy đó (cái giấy cháu vừa cấp cho bác í) vì chúng cháu không có thẩm quyền!
Tức khí, ông ra đền thắp hương rồi bảo con cháu đưa thẳng về Kinh thành xin xuất bản, ông vào Nhà xuất bản Hội Nhà văn, ở đó, chao ôi là ân cần, niềm nở ở đó người ta đón tiếp ông như người ông đi xa lâu ngày mới trở về, hỏi han, dặn dò...chừng độ một tháng sau cuốn sách dưới đây chào đời...
Hu hu, các cơ quan, các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa gạo cội của tỉnh nhà đi đâu cả rồi, để cho ông kỹ sư chăn nuôi tuổi ngoài thất thập vất vả đến nhường này...Còn nhiều chi tiết ly kỳ lắm để khi nào nhàn cư mỗ đây biên tiếp hầu bà con....
À quên, sách chắc là sẽ có bán hoặc biếu tại Bản đền, chợ Kỳ Lừa, phường Hoàng Văn Thụ, TP Lạng Sơn.

Bìa cuốn sách




Bìa lót có lời đề tặng của tác giả cho Mỗ



Lời giới thiệu của NXB Hội nhà văn




Thân thế, sự nghiệp của tác giả


Đang viết tiếp...

Georges Condominas qua đời.

Những ai đã học hay quan tâm đến văn hóa dân gian không thể không biết đến Georges Condominas, cây đại thụ văn hóa dân gian và sử thi, dân tộc học...về Tây Nguyên đã trút hơi thở cuối cùng ngày 17/7/2011. Những năm học ở Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian (Nay là Viện nghiên cứu văn hóa) Georges Condominas là cái tên lớn đầy ngưỡng mộ đối với mỗ. Nay ông đã về cói vĩnh hằng, xin thắp một nén nhang tưởng nhớ đến ông!


Tiễn đưa Condo của Tây Nguyên


Ăn rừng, người Tây Nguyên “ăn rừng”, xin thức ăn cho sự sống của mình từ rừng, cũng như chúng ta nói chúng ta bú sữa mẹ mà lớn lên thành người. Tây Nguyên không còn rừng thì rồi sẽ ra sao?” - Georges Condominas.
Yoo Condo thân thiết của người Mnông Gar.
Yoo Condo thân thiết của người Mnông Gar.
Georges Condominas đã ra đi trong đêm thứ bảy 16 rạng sáng chủ nhật 17/7/2011. Thế giới vừa mất một trong những nhà dân tộc học lớn nhất của mình. Chắc chắn trong những ngày đến sự kiện này sẽ gây xao động không chỉ ở Pháp, và ở Việt Nam, nơi nhà bác học này đặc biệt gắn bó. Và tôi chắc ở một nơi sâu tít trong tận cùng Tây Nguyên, tại cái làng nhỏ có tên là Sar Luk bên bờ con sông Krong Nô hoang vắng, dưới chân dãy Chư Yang Sin hùng vĩ, một dân tộc rất nhỏ tên là dân tộc Mnông Gar sẽ làm lễ bỏ mả cho ông, Yoo Condo thân thiết của họ - Yoo là cách người Mnông Gar gọi người nơi khác đến mà đã trở nên ruột thịt.
 
Tôi đã may mắn được là một người bạn nhỏ của con người vĩ đại ấy, và cách tôi được gặp và quen ông thật lạ, cũng có thể là tiêu biểu cho một trong những tính cách độc đáo của ông. Hơn 30 năm trước, một hôm đang ngồi làm việc ở nhà, tôi nghe điện thoại reo và bên kia đầu dây một người nói với tôi bằng tiếng Pháp: “Tôi vừa từ Paris sang, một chị bạn của anh bên ấy nhờ mang cho anh mấy cuốn sách, làm sao trao được cho anh?”. Tôi cám ơn và xin ông cho biết tôi có thể đến gặp ông ở đâu để nhận sách. Ông trả lời: “Tôi là Geoges Condominas, hiện ở khách sạn X, anh có thể đến khoảng 2 giờ chiều nay không?”
 
Không thể nói hết sửng sốt của tôi, hóa ra một nhà bác học lớn, mà tôi đã được đọc một số tác phẩm nổi tiếng, vừa gọi điện cho tôi và chỉ mấy tiếng nữa tôi sẽ được gặp ông! Mươi phút sau, điện thoại lại reo. Vẫn là Condominas. “Thôi, anh không cần đến khách sạn đâu. Tôi có một người bạn ở Hà Nội biết nhà anh, tôi sẽ đến chỗ anh ngay bây giờ, được không?”.
Tả sao hết hồi hộp. Mươi lăm phút sau một chiếc xe máy đổ xịch trước thềm: nhà dân tộc học lừng danh thế giới, người thầy của bao thế hệ dân tộc học khắp năm châu, đến nhà tôi bằng xe ôm! Tôi còn nhớ mãi hình ảnh Condo hôm ấy, cũng sẽ là hình ảnh quen thuộc những người biết ông hẳn còn mãi ghi nhớ: chiếc áo vét tông lụng thụng và hơi nhàu, không hề có cà vạt, chiếc mũ phớt hơi rộng vành màu nâu nhạt. Ông ở chơi với tôi gần suốt buổi, say sưa trò chuyện về Tây Nguyên, ông hỏi tôi lên Tây Nguyên từ năm nào, cười bảo “Thế là thua tôi rồi, tôi đến Tây Nguyên trước anh một năm cơ …”.
Cuộc trò chuyện sôi nổi, song cũng nhiều lúc chùng xuống, chúng tôi chia sẻ cùng nhau niềm nhớ và nhất là nỗi lo đau đáu về vùng đất xiết bao ruột thịt với cả hai chúng tôi, đang trải qua những thử thách có lẽ là lớn nhất, nặng nề nhất trong suốt lịch lâu dài của nó. Rừng và con người ở đó đang và rồi sẽ ra sao? “Anh biết đấy”, Condo bảo, tôi từng viết “Chúng tôi ăn rừng…”. Ăn rừng, người Tây Nguyên “ăn rừng”, xin thức ăn cho sự sống của mình từ rừng, cũng như chúng ta nói chúng ta bú sữa mẹ mà lớn lên thành người. Tây Nguyên không còn rừng thì rồi sẽ ra sao? …”.
Chính nỗi ưu tư đeo đẳng và ngày càng thống thiết ấy gắn kết chúng tôi. Mỗi lần ông sang Việt Nam, chúng tôi đều gặp nhau, cùng đi Tây Nguyên, cùng đi miền núi Quảng Nam. Lần ông cũng bảo: “Tôi luôn thèm về đấy. Ở nơi ấy tôi đã học làm người”. Và ở cuộc triển lãm đặc sắc “Chúng tôi ăn rừng – G. Condominas ở Sar Luk” được trưng bày ở Paris, rồi ở Hà Nội tháng 12/2007, giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của ông, có một băng rôn ghi một câu của Condominas, có thể coi là châm ngôn của đời ông, nghe hơi lạ và rất đáng chú ý: “L’ethnographie est un genre de vie”. Có thể dịch: “Dân tộc học là một kiểu sống” hay “Dân tộc học là một lối sống”. Riêng tôi muốn dịch “Dân tộc học là một loại hình sống”. Loại hình, như các loại hình thực vật, động vật … Một loại hình, chứ không phải một nghề.

Giáo sư Georges Condominas sinh năm 1921 tại Hải Phòng, cha người Pháp còn mẹ mang ba dòng máu Bồ Đào Nha, Hoa và Việt. Từ nhỏ ông đã theo cha sống ở Pháp, Tunisia và Việt Nam. Ông vừa học luật vừa học hội hoạ ở trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Đương (Hà Nội), sau đó về Paris học để lấy bằng cử nhân văn khoa (1947) và bằng của trung tâm Đào tạo nghiên cứu dân tộc học (1948). Năm 1970 ông trình luận án tiến sĩ khoa học nhân văn ở đại học Sorbonne (Paris). Năm 2007, ông được bầu làm thành viên danh dự viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO). Ông đã nhiều lần là giáo sư thỉnh giảng ở các đại học hàng đầu thế giới. Năm 2006, viện Khoa học xã hội Việt Nam tặng ông huy chương của viện. Năm 2010, ông nhận giải Việt Nam học của quỹ văn hoá Phan Châu Trinh.

Hai cuốn sách của ông: Nous avons mangé la forêt (Chúng tôi đã ăn rừng) và L’exotique est quotidien (Cái xa lạ là hằng ngày) được nhà dân tộc học André Leroi-Gourhan xếp vào số “các cuốn sách kinh điển của ngành dân tộc học”.
Condominas được đào tạo bởi những con người không chỉ là những nhà nhân học, dân tộc học lớn, mà còn là những nhân cách lớn, rất đặc biệt, hay đúng hơn nữa, thuộc một “loại hình” riêng, những Marcel Mauss, Paul Mus, Claude và Paul Lévy-Strauss, André Leroi-Gourhan, André-George Haudricourt, Pierre Edouard Mestre, Maurice Leenhardt… cùng với Georges Balandier, Jean Guiart, Paul Mercier …
Có thể hiểu một cách vắn tắt “loại hình” ấy như thế này: một nhà khoa học bất kỳ có thể có hai cuộc đời, cuộc đời của người làm khoa học, và một cuộc đời riêng, không nhất thiết gắn làm một. Nhà dân tộc học thì không, anh ta chỉ có một, không thể tách rời, dân tộc học là cuộc đời anh, cuộc đời anh là dân tộc học, không chừa lại chút gì; anh đồng hóa với đối tượng của mình đến cùng, cùng một số phận, cùng một số mệnh, cùng một loại hình, anh không ở bên ngoài mà bên trong nó, anh chính là nó, thành bại, mất còn.
Chúng ta biết dân tộc học, nói cho đúng, trước hết là một sản phẩm của châu Âu, của chủ nghĩa thực dân. Nó sinh ra khi chủ nghĩa thực dân châu Âu đi chinh phục và biết đến các dân tộc “lạc hậu”, tìm hiểu chúng. Vì vậy nhà dân tộc hầu như bao giờ cũng từ một nền văn hóa được tự coi là cao hơn đến quan sát, nghiên cứu một nền văn hóa bị coi là thấp hơn, từ bên ngoài nhìn vào và từ bên trên nhìn xuống…
Năm 1948 anh thanh niên Condominas vừa mới ra trường, sang Đông Dương, lên Tây Nguyên, tìm đến tộc người Mnông Gar ở làng Sar Luk hoang vắng, và ngay từ đầu ý thức sâu sắc “mặc cảm” đó, hiểu rằng anh phải khắc phục được nó, phải thay đổi toàn bộ cuộc đời mình, nhập thân được vào “loại hình” dân tộc học của mình. Hiểu Mnông Gar ư? Anh phải hiểu nó từ bên trong. Sau này anh sẽ nói, giản dị - vậy đó, chân lý thì bao giờ cũng giản dị - chẳng hạn, “để biết một món ăn Mnông Gar có ngon không thì nhất thiết phải là một người Mnông Gar”. Anh phải thành một người Mnông Gar. Condo vào làng Sar Luk, xin làm một căn nhà chen giữa làng, thành một hộ như bao nhiêu hộ của làng.
Thời gian ngắn đầu, anh còn phải nhờ một phiên dịch, nhưng rồi anh nhanh chóng học thạo tiếng, đến mức đêm nằm mơ toàn bằng tiếng Mnông Gar – nghĩa là anh tư duy không phải bằng tiếng Pháp nữa mà bằng tiếng Mnông Gar; anh “tư duy Mnông Gar”. Anh sống cùng số phận của làng, vui mừng, đau khổ, thành bại, sống chết cùng làng Mnông Gar đến tối đa, để sự hiện diện của một người ngoài, lại là một da trắng, lại là một nhà dân tộc học nữa, không làm biến dạng hiện thực như hằng có của làng, làm biến dạng một cách tất yếu ứng xử của người làng với nhau và với người lạ khi làng có “khách” lạ...
Tác giả và Georges Condominas. Ảnh: Đoàn Huy Giao
Tác giả và Georges Condominas. Ảnh: Đoàn Huy Giao
Song ở đây còn có chỗ rất tế nhị: nhà dân tộc học hết sức “quên” mình đi, để cho làng cũng “quên” sự hiện diện của anh đi, nhưng đồng thời anh vẫn phải là nhà dân tộc học, tỉnh táo và sắc sảo quan sát. Có mâu thuẫn không, và nhà dân tộc học phải giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào? Có lần tôi đã hỏi Condominas về điều ấy.
 
Rất ngạc nhiên là ông cũng… rất ngạc nhiên. Ông bảo ông không để ý, hay đúng hơn không cảm thấy khó khăn. Có lẽ, ông nói, vì mình sống thật tình đến cùng với bà con.
Ta biết ít ra một ví dụ về thành công này của Condominas, trong việc ông tìm ra được bộ đàn đá tiền sử đầu tiên trên thế giới… Đêm ở làng Sar Luk, như mọi đêm, sau một ngày sống và lao động cùng bà con, Condo ngồi hút rượu cần và rít tẩu thuốc với các già làng bên bếp lửa nhà sàn, lơ mơ ngủ, chợt thức dậy lại hút rượu và rít thuốc, lại lơ mơ ngủ, không hề để ý một thanh niên ngày hôm ấy được điều đi sửa con đường từ Sar Luk đi Đầm Ròn đang lầm rầm kể chuyện…
Đang thiêm thiếp, chợt Condo giật mình thức dậy, hỏi: “Cậu vừa nói gì đấy? Nói lại xem!”. Lơ mơ ngủ nhưng ông vừa nghe được hai tiếng “mau prum”. “Nhắc lại đi!”, ông khẩn khoản. Vì, đã quên mình là người lạ, người Pháp, hết sức thông thạo đến ăn sâu trong máu thịt tiếng Mnông Gar, nhưng đồng thời ông vẫn là nhà dân tộc học, tỉnh táo và sắc sảo, để chỉ cần hai tiếng “mau prum” nghe như trong mơ đã đánh thức ngay nhà dân tộc học trong ông dậy. “Mau prum” có nghĩa là đá Chàm. Và là nhà dân tộc học thành thạo, ông biết người Chàm chưa bao giờ đặt chân lên vùng đất Krông Nô này suốt lịch sử. Nghĩa là người thanh niên kia đã thấy một điều gì đó rất lạ mà anh ta không hiểu được trong ngày đi làm đường hôm nay.
Anh kể: trong khi lao động sáng nay, các anh đã phá một ụ đất để nắn lại con đường trước đây bị uốn cong, và tìm thấy trong ấy mười một phiên đá lạ, rất dài, mà người Mnông khi gặp bất cứ vật cổ nào mà họ không thể hiểu và họ tin là bí ẩn, thiêng liêng thì đều coi đó là của người Chàm xưa… Sáng hôm sau Condo cùng người thanh niên đi đến hiện trường, quan sát kỹ, nhận ra đấy là những phiến đá đã được đẽo gọt bởi bàn tay con người, một vật cổ, có thể là tiền sử… Những phiến đá ở làng Dnut Lieng Krak, cách Sar Luk khoảng 10 km, được Condominas phát hiện năm 1949, gửi về viện Nhân chủng học Paris, được các chuyên gia nhân học, khảo cổ học, nhạc học nghiên cứu tỉ mỉ, xác nhận là một bộ đàn đá tiền sử (đúng ra là hai bộ, thiếu mất một thanh), cực kỳ đặc sắc, là bộ đàn đá tiền sử đầu tiên tìm được trên thế giới, có niên đại khoảng ba nghìn năm …
Condominas rất ít khi nhắc lại chiến công khảo cổ học từng làm chấn động thế giới ấy của ông. Ông chỉ nói: “Dân tộc học là một loại hình sống”, vậy thôi. Thế đấy!
 … Từ Sar Luk, Condominas mang về cho thế giới khoa học (và cả văn học) tác phẩm “Chúng tôi ăn rừng Đá Thần Gô”, ra mắt ở nhà xuất bản Mercure de France, nơi chỉ chuyên in tác phẩm văn học của những văn hào lớn như Verlaine và Rimbaud, và cuốn sách lập tức được nhà nhân học hàng đầu Claude Lévy-Strauss coi là “đánh dấu sự đăng quang trong nền văn học dân tộc học của một thể loại hoàn toàn mới, nổi bật vì sự gắn bó với hiện thực bản địa, sâu sắc hơn tất cả những gì đã từng có trước nay”. Ít lâu sau, cuốn sách thứ hai về Sar Luk của ông ra đời, cũng hết sức độc đáo, cuốn “L’exotique est quotidien” (có thể dịch là “Kỳ lạ mỗi ngày”), bút ký tự thuật cảm động và uyên bác về sự nghiệp hay cuộc đời “dân tộc học là một loại hình sống” của ông …
 
Hôm nay chúng ta tiễn đưa về cõi vĩnh hằng một nhà bác học lớn, một người bạn lớn của Việt Nam, đặc biệt của các dân tộc Tây Nguyên, người, tôi tin vậy, cho đến giờ phút cuối cùng vẫn không ngớt nỗi nhớ dằng dặc và nội lo đau đáu về Tây Nguyên của chúng ta, của ông. Vì Tây Nguyên đối với ông đã trở thành “một loại hình sống”.
Hãy biết yêu và lo như ông.
19/7/2011
Nguyên Ngọc (Theo SGTT)

Xuân thu nhị kỳ...

Xuân thu nhị kỳ, những đổng lý văn phòng cũ có, mới có, trẻ ranh có, già cỗi có ở muôn phương lại hội ngộ ở kinh thành ca bài ca muôn thuở "bưng, bê, kê, đặt..." lại hỏi nhau đã (chuyển) đi đâu chưa? Rồi tự trả lời, nếu đi thì còn gặp nhau ở đây làm gì, nụ cười trở nên gượng gạo, méo mó, đôi ba anh cau có. Lại tụ bạ, lại cùng nhau kể chuyện mình, chuyện đời...
Kỳ này khác hơn  những kỳ trước là bắt đầu một đợt khách (hay là chủ) mới...

 Một số hình ảnh gặp gỡ nơi kinh thành giữa muôn hồng, ngàn tía (không chú thích, không bình luận)

















Xuân thu nhị kỳ...

Xuân thu nhị kỳ, những đổng lý văn phòng cũ có, mới có, trẻ ranh có, già cỗi có ở muôn phương lại hội ngộ ở kinh thành ca bài ca muôn thuở "bưng, bê, kê, đặt..." lại hỏi nhau đã (chuyển) đi đâu chưa? Rồi tự trả lời, nếu đi thì còn gặp nhau ở đây làm gì, nụ cười trở nên gượng gạo, méo mó, đôi ba anh cau có. Lại tụ bạ, lại cùng nhau kể chuyện mình, chuyện đời...
Kỳ này khác hơn  những kỳ trước là bắt đầu một đợt khách (hay là chủ) mới...

 Một số hình ảnh gặp gỡ nơi kinh thành giữa muôn hồng, ngàn tía (không chú thích, không bình luận)

















Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT TRONG ĐIỀN DÃ QUAN SÁT NGÀY LỄ HỘI CHÙA THẦY

Hoa Lê-ki-ma là hoa cây Trứng gà?

KỶ NIỆM 64 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7/1947 - 27/7/2011
  • Nhớ hồi kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh liệt sỹ 27/7, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức rộng rãi cho đoàn viên, thanh niên, cán bộ, công chức và nhân dân tham gia cuộc thi tìm hiểu về ngày Thương binh liệt sỹ 27/7. Đề cương cho sẵn, tài liệu tham khảo thì phong phú. Ai cũng sôi nổi tham gia vì lúc ấy các cuộc thi tuy đã có nhiều nhưng chưa nở rộ như sau này. Chi đoàn cử hẳn một "Bộ tham mưu" để làm đề cương riêng quyết ẵm giải. Câu hỏi cuộc thi có đề cập đến một nhạc phẩm của nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn là bài hát "Biết ơn chị Võ Thị Sáu" trong đó có câu mở đầu là "mùa hoa Lê-ki-ma nở". Một đồng nghiệp bây giờ đang công tác ở một cơ quan trung ương có sáng kiến là mở ngoặc chú thích luôn sau câu đó hoa Lê-ki-ma miền Bắc gọi là cây Trứng gà. Cả "Bộ tham mưu" đều nhất trí cao. Chẳng biết có phải chi tiết vô cùng "đắt giá" đó không mà sau đó mưa giải đã ập xuống Chi đoàn BTTH-TV tỉnh. Một giải ba và 3 giải khuyến khích đã thuộc về các đoàn viên Chi đoàn. Thấm thoắt, đến giờ một số đoàn viên khi ấy nay đã và sắp trở thành bố, mẹ đoàn viên rồi. Một kỷ niệm còn nhớ mãi.
Viếng nghĩa trang liệt sỹ Hàng Dương, Côn Đảo Bà Rịa - Vũng Tàu (02/01/2009)






Thắp hương tưởng nhớ các liệt sỹ quê Lạng Sơn yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sỹ Trường Sơn (18/4/2010)


Lịch sử ngày Thương binh liệt sỹ 27/7
Cách mạng tháng tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Núp sau quân Anh - Ấn, chúng trắng trợn gây nên những vụ xung đột vũ trang ở nhiều nơi thuộc Nam Bộ, Trung Bộ. Tiếp đó, khi vào thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ, thực dân Pháp gây ra những vụ bắn phá giết hại dân ta ở Hải Phòng, Hà Nội….. mở đường cho việc xâm lược cả nước ta.

Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong cuộc chiến đấu này, một số chiến sĩ, đồng bào ta bị thương và hi sinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình yêu thương của mình, góp phần chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh em thương binh, bênh binh một cách tận tình chu đáo.

Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ tử nạn” sau đổi tên “Hội giúp binh sĩ bị thương” được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Hồ Chủ tịch là hội trưởng danh dự của hội.

Ngày 28/5/1946, “hội giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại nhà hát thành phố Hà Nội và Hồ chủ tịch đã đến dự. Ngày 7/11/1946, cũng tại nhà hát thành phố Hà Nội, buổi quyên góp ủng hộ quần áo giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận đã được tổ chức, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”, tại đây Hồ chủ tịch đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sĩ.

Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương, hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh, gia đình liệt sĩ trong thời kỳ đầu của cuốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tháng 6/1947, đại biểu của tổng bộ Việt Minh, Trung Ương hội phụ nữ cứu quốc, Trung Ương đoàn thanh niên cứu quốc, cục Chính Trị Quân Đội quốc gia Việt Nam, nhà thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sĩ và thực hiện chỉ thị của Hồ chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh liệt sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, hội nghị nhất trí đề nghị Trung Ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sĩ – ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý Uống Nước Nhớ Nguồn.

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam gửi Điều lệ cho Hội viên

HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM (Tên đầy đủ là HỘI NHỮNG NGƯỜI SƯU TẦM, NGHIÊN CỨU, PHỔ BIẾN VÀ TRUYỀN DẠY VĂN HÓA VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM, Tên Tiếng Anh là ASSOCIATION OF VIETNAMESE FOLKLORISTS, viết tắt là AVF) vừa gửi Điều lệ Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam khóa VI (2010-2015) cho các Hội viên.
Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) gồm 7 Chương, 29 Điều đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI nhiệm kỳ 2010-2015 của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thông qua ngày 11 tháng 5 năm 2010 tại thành phố Hà Nội và được Bộ Nội vụ phê duyệt tại Quyết định số 1337/QĐ-BNV ngày 22 tháng 11 năm 2010.

Điều lệ Hội 





 Đại hội Chi hội Lạng Sơn ngày 06/3/2011 (hix, Y cũng được ngồi Đoàn Chủ tịch cơ đấy)



GS-TSKH Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội dự Đại hội Chi hội Lạng Sơn



Trò chuyện lúc giải lao



Y với thầy giáo cũ Tô Ngọc Thanh



Huyền thoại Langbiang - Đà Lạt



Giữa khung trời Đà Lạt (21/4/2006)



Biệt thự cổ Đà Lạt (21/4/2006)



Những con "chiến mã" trên đỉnh Langbiang huyền thoại.

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

Hôm nay 14/7 Quốc khánh Cộng hòa Pháp

Nhân ngày Quốc khánh Cộng hòa Pháp 14/7, mỗ đây kể câu chuyện phá ngục Bastille hầu bà con:

Pháo đài Bastille nằm ở ngoại ô gần khu Xanh - ăng - toan, khu vực của công nhân và thợ thủ công. Những khẩu đại bác ở pháo đài đe dọa công nhân và nông dân ở vùng này. Muốn thắng quân đội nhà vua trước hết phải phá ngục thành trì này. Cướp được Baxti là một đòn chí mạng giáng vào chế độ quân chủ chuyên chế.
Sáng tinh mơ ngày 14/7, hàng vạn quần chúng từ các nẻo kéo về bao vây pháo đài trong muôn ngàn tiếng thét. Người ta vang lên một điệp khúc "Bọn chỉ huy hãy hạ vũ khí đầu hàng đi" tên chỉ huy bác bỏ yêu cầu của quần chúng ra lệnh bắn vào đoàn người. Nhân dân hiểu ngay rằng phải dùng bạo lực cướp Bastille, trừng trị bọn đao phủ khát máu. Cuộc chiến đấu khốc liệt diễn ra trong từng ngõ chân thành. Máu đã loang lổ khắp đó đây, tiếng súng chen lẫn tiếng la thét, quần chúng không chùn bước, lớp người này ngã xuống, lớp người khác vùng lên. Trong những người đứng ở hàng đầu cuộc đấu người ta thấy có đầy đủ các tầng lớp nhân dân lao động, có nam nữ, có già trẻ khí thế quần chúng áp đảo vũ khí và tinh thần bọn giữ súng. Đến gần trưa, pháo đài bị hạ quần chúng reo mừng nhảy múa tượng trưng cho chế độ chuyên chế bị đập tan và đến lượt nó chế độ quân chủ bị sụp đổ, quần chúng ca khúc khải hoàn song vẫn chuẩn bị đối phó với sự phản công của nhà vua. Nhưng nhà vua đã khiếp đảm trước lực lượng hùng hậu của quần chúng nên tuyên bố ở hội nghị quốc dân quân là đã hạ lệnh cho quân đội rút khỏi Pari. Âm mưu của triều đình chống lại cách mạng quần chúng bị đập tan.
Nhà thơ Tố Hữu đã mô tả sự bắt đầu của cách mạng ở Pháp ngày 14/7:
"Và lớn bé đàn ông, đàn bà
Tất cả chiếm mỗi người một khí giới
Anh hàng thịt vung con dao sáng loáng
Người lính già quắc thước năm chuôi gươm
Và anh hàng giày quần áo rách bươm
Anh hàng dệt đang nằm sau cửa xưởng
Cũng nổi dậy oai nghi như võ tướng
Giật thanh đao khẩu súng nhảy ra ngoài
Những thằng con bé bỏng cũng dương oai
Phồng má thổi kèn vang sau gót bố"
Pháo đài Bastille xây dựng từ thế kỷ XIV nó đứng sừng sững trên đường dẫn tới Pari. Tường pháo đài xây bằng đá, cao 24m, dày 3m. Có 8 tháp canh cao 30m xung quanh thành có hào sâu bao bọc, chỉ có một chiếc cầu treo làm bằng những xích sắt dẫn tới dinh lũy.
Trưa hôm đó ngục Bastille bị hạ, quần chúng nhảy múa vui xướng. Với nỗi căm thù chất chứa họ phá ngục Bastille. Sau này trên nền cũ của pháo đài người ta xây dựng một quảng trường lớn có ghi dòng chữ "Ở ĐÂY NGƯỜI TA NHẢY MÚA"
Lúc đầu người ta xây pháo đài Bastille làm nhiệm vụ bảo vệ thành phố chống lại sự tấn công của địch. Nhiều năm trôi qua Pari phát triển nhanh chóng, phố xá đông đúc Bastille trở nên nằm giữa thành phố, chẳng bao lâu nó mất hết ý nghĩa quân sự, các vua Pháp biến nó thành nhà tù quốc gia.

Hoa Lê-ki-ma là hoa cây Trứng gà?

KỶ NIỆM 64 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7/1947 - 27/7/2011
  • Nhớ hồi kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh liệt sỹ 27/7, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức rộng rãi cho đoàn viên, thanh niên, cán bộ, công chức và nhân dân tham gia cuộc thi tìm hiểu về ngày Thương binh liệt sỹ 27/7. Đề cương cho sẵn, tài liệu tham khảo thì phong phú. Ai cũng sôi nổi tham gia vì lúc ấy các cuộc thi tuy đã có nhiều nhưng chưa nở rộ như sau này. Chi đoàn của y cử hẳn một "Bộ tham mưu" để làm đề cương riêng quyết ẵm giải. Câu hỏi cuộc thi có đề cập đến một nhạc phẩm của nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn là bài hát "Biết ơn chị Võ Thị Sáu" trong đó có câu mở đầu là "mùa hoa Lê-ki-ma nở". Một đồng nghiệp bây giờ đang công tác ở một cơ quan trung ương có sáng kiến là mở ngoặc chú thích luôn sau câu đó hoa Lê-ki-ma miền Bắc gọi là cây Trứng gà. Cả "Bộ tham mưu" đều nhất trí cao. Chẳng biết có phải chi tiết vô cùng "đắt giá" đó không mà sau đó mưa giải đã ập xuống Chi đoàn BTTH-TV tỉnh. Một giải ba và 3 giải khuyến khích đã thuộc về các đoàn viên Chi đoàn. Thấm thoắt, đến giờ một số đoàn viên khi ấy nay đã và sắp trở thành bố, mẹ đoàn viên rồi. Một kỷ niệm y còn nhớ mãi.
Viếng nghĩa trang liệt sỹ Hàng Dương, Côn Đảo Bà Rịa - Vũng Tàu (02/01/2009)






Thắp hương tưởng nhớ các liệt sỹ quê Lạng Sơn yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sỹ Trường Sơn (18/4/2010)


Lịch sử ngày Thương binh liệt sỹ 27/7
Cách mạng tháng tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Núp sau quân Anh - Ấn, chúng trắng trợn gây nên những vụ xung đột vũ trang ở nhiều nơi thuộc Nam Bộ, Trung Bộ. Tiếp đó, khi vào thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ, thực dân Pháp gây ra những vụ bắn phá giết hại dân ta ở Hải Phòng, Hà Nội….. mở đường cho việc xâm lược cả nước ta.

Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong cuộc chiến đấu này, một số chiến sĩ, đồng bào ta bị thương và hi sinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình yêu thương của mình, góp phần chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh em thương binh, bênh binh một cách tận tình chu đáo.

Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ tử nạn” sau đổi tên “Hội giúp binh sĩ bị thương” được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Hồ Chủ tịch là hội trưởng danh dự của hội.

Ngày 28/5/1946, “hội giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại nhà hát thành phố Hà Nội và Hồ chủ tịch đã đến dự. Ngày 7/11/1946, cũng tại nhà hát thành phố Hà Nội, buổi quyên góp ủng hộ quần áo giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận đã được tổ chức, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”, tại đây Hồ chủ tịch đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sĩ.

Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương, hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh, gia đình liệt sĩ trong thời kỳ đầu của cuốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tháng 6/1947, đại biểu của tổng bộ Việt Minh, Trung Ương hội phụ nữ cứu quốc, Trung Ương đoàn thanh niên cứu quốc, cục Chính Trị Quân Đội quốc gia Việt Nam, nhà thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sĩ và thực hiện chỉ thị của Hồ chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh liệt sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, hội nghị nhất trí đề nghị Trung Ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sĩ – ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý Uống Nước Nhớ Nguồn.

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2011

Thứ Bảy, 9 tháng 7, 2011

ĐBQH Lạng Sơn Nguyễn Minh Thuyết nói gì về việc phát ấn?

Sáng nay, TTO đăng bài phỏng vấn ĐBQH tỉnh Lạng  Sơn Nguyễn Minh Thuyết về việc phát ấn đầy tai tiếng tại Đền Trần Nam Định mấy năm gần đây. Mỗ đây nhanh tay nhặt về treo tạm cho bà con xem. À, mà năm trước mỗ đây cũng có được một cái ấn Đền Trần, nhưng chắc là hàng chợ thôi vì của các quan chức hàng tỉnh của NĐ "biếu" chứ không được cái vinh hạnh do ông PTT trực tiếp đóng, vì ngài chỉ đóng có mấy cái lúc nửa đêm thôi. Rồi năm đó hoạn lộ, lương lậu của mỗ vẫn không thấy có biến chuyển gì. Năm nay mỗ quyết chí ở nhà bái vọng, và bất ngờ chưa...giữa năm mỗ đây lại được lên lương do...đã đến niên hạn!

Hic! Mỗ cũng tóm được một đùm lộc to bằng quả bưởi!



Lễ hội đền Trần:
Quan chức không nên tham gia phát ấn
TT - LTS: Sau bài viết “Chưa chứng minh được tục phát ấn” nói về đề án tổ chức lễ hội đền Trần Nam Định năm 2012, Tuổi Trẻ ghi nhận thêm ý kiến của ông NGUYỄN MINH THUYẾT - phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội:
Ông Nguyễn Minh Thuyết - Ảnh: V.Dũng
- Tôi nghĩ rằng việc Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch giao cho Viện Văn hóa nghệ thuật VN phối hợp với một số đơn vị chức năng có liên quan tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá và nghiên cứu, đề xuất mô hình tổ chức lễ hội đền Trần Nam Định năm 2012 và những năm tiếp theo đã thể hiện một thái độ thận trọng, cầu thị nhằm giải quyết những vấn đề mà dư luận quan tâm (tuy ở cấp độ địa phương), liên quan đến đời sống văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của nhiều người.
Qua theo dõi trên báo, tôi thấy Viện Văn hóa nghệ thuật VN đã đề xuất hai phương án tổ chức lễ hội đền Trần Nam Định năm 2012 và những năm tiếp theo. Tôi rất chia sẻ với đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng đề án này, bởi ngay lập tức chúng ta không tổ chức phát ấn nữa sẽ khiến nhiều người đi lễ bao năm nay cảm thấy băn khoăn, hơn nữa sẽ xuất hiện tình trạng phát ấn ngầm. Và điều này cũng đã xảy ra trên thực tế.
Trong tình hình hiện nay có thể thực hiện phương án 2 nhưng cần phải làm tốt những việc như tổ chức tuyên truyền để mọi người dân về dự lễ hiểu rằng đây không phải là ấn của các vua Trần mà là ấn của đền Trần Nam Định; các quan chức nhà nước không nên tham gia việc tổ chức khai ấn và phát ấn; không tổ chức thu tiền khi phát ấn mà để người dân và người đi lễ thể hiện sự công đức của mình; nghiên cứu và xây dựng thật tốt các phương án nhằm đảm bảo tổ chức lễ hội sao cho an toàn, trật tự và văn minh.
Ngoài ra, không nhất thiết “khóa” việc phát ấn chỉ diễn ra trong một, hai ngày mà nên kéo dài thời gian. Ban tổ chức và nhà đền cần làm những nhà chờ tại những địa điểm thích hợp để phục vụ người dân mỗi khi chờ đến lượt mình nhận ấn trong khuôn viên nội tự di tích. Nhà đền cũng tính đến phương án tiết chế số lượng người mỗi khi vào khu vực di tích nhận ấn nhằm tránh tình trạng chen lấn, xô đẩy...
YÊN TÙNG ghi
Y cùng với ĐBQH - GS Nguyễn Minh Thuyết được tặng hoa nhân ngày nhà giáo Việt  Nam 20/11/2010

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011

Đám cưới út nam nhà Giáo sư Khúc

"Thế là cuối cùng Khởi cũng đã tìm được cái nửa kia của cuộc đời mình và phá kỷ lục của bố nó. Anh 35 tuối mới cưới vợ vì còn mải đi kháng chiến còn cháu hòa bình đề huề mà 37 mới cưới vợ..." Đó là phần mở đầu  bức thư của GS.TSKH Đặng Vũ Khúc gửi cô em gái ở Thái Nguyên (đã 79 tuổi) mời dự đám cưới út nam Đặng Vũ Khởi (ở nhà gọi là Cò bé) ngày 02/7 tại Khách sạn Hòa Bình, 27 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm Hà Nội. (Hôn lễ và tiệc cưới chính thức đã được tổ chức ngày 11/6 tại TP Hồ Chí Minh, nơi công tác của chú rể và cô dâu)

Dưới đây là một số bức ảnh đám cưới tại khách sạn Hòa Bình:
 Cùng vợ chồng GS Đặng  Vũ Khúc đón khách tại tiền sảnh



Cùng cô dâu, chú rể



GS.TSKH Đặng  Hùng Võ (Cháu ruột GS Khúc) cũng có mặt






Đại gia đình






Lúc về đến Mẹt gặp cái chợ vải, tắc cả đường



Xem thêm: GS.TSKH Đặng Vũ Khúc đến Làng Chiềng Bộ ảnh đám cưới GS Đặng Hùng Võ