Ha ha ha, y mới được một bác lân bàng
(Không phải lân bang nhé) vốn là kỹ sư chăn nuôi tặng cuốn sách Lịch sử
Đền Tả Phủ mà bác là soạn giả (Có lời đề tặng đàng hoàng) Sách in trên
giấy đẹp 40 trang, khuôn khổ 14,5 x 21 do Nhà Xuất bản Hội Nhà văn ấn
hành tháng 6 năm 2011. Hiện ông lân bàng này vẫn theo đuổi nghề chăn
nuôi, mà rất là nhân bản nhé (nhân
bản theo đúng nghĩa đen chớ không phải nghĩa bóng đâu - dịch vụ này mà ở
người thì nhà thương Từ Dũ người ta lấy trăm triệu một lần là rẻ rồi
đó) thị phần của ông rất lớn trong tỉnh. Con cái phương trưởng
ông đâm ra thích thú viết sách lịch sử. Đoạn trường xin giấy phép xuất
bản của ông với các cơ quan công quyền cũng lắm gian truân. Đầu tiên ông
đến gõ cửa Sở 4 T, ở đó người ta rất nhiệt tình tiếp đón và sẵn sàng
giúp ông toại ý (Bộ phận một cửa cơ mà) Cơ mà, họ yêu cầu ông sang cái
Sở chuyên ngành xin cho cái ý hiệp thông, thẩm định gì đó; ông vui vẻ ra
về và đến Sở nọ. Nơi một cửa sở ấy tận tình giảng giải lại còn
photocopy miễn phí cho ông cái văn bản quy định chi chi đó rằng cái nỳ
giờ chuyển phứt sang Sở 4 T đứt đuôi con nòng nọc rồi bác ạ bọn cháu
không có trách nhiệm gì đâu, thật đấy!
Ông ra về mang theo cái giấy
được cho không ấy quay trở lại Sở 4T; người tiếp nghe đâu cũng cỡ Trưởng
phòng lại rất vui vẻ thanh minh rằng bác ới, cái sở kia họ hiểu sai văn
bản rồi, nhưng thôi được bác cứ về phường nơi bác ở và có cái đền đó
xin cái xác nhận có áp triện nhé, sang đây chúng cháu sẽ cấp cho tắp lự,
một cửa mà!, bác yên tâm đi. Ông lại lủi thủi về phường xin cái giấy,
giải thích, nằn nỳ mãi rồi cũng được chấp nhận, ông hả hê ra về và đến
thẳng Sở 4T, chắc mẩm lần này Ngài Hán Quận công đã phù hộ, nhưng vừa
vào đến cửa Sở thì cái mô bai trong túi ông lại rung lên, đầu dây bên
kia quan chức phường thỏ thẻ xin lỗi và xin bác cho cháu lấy lại cái
giấy đó (cái giấy cháu vừa cấp cho bác í) vì chúng cháu không có thẩm
quyền!
Tức khí, ông ra đền thắp hương rồi bảo con cháu đưa thẳng về
Kinh thành xin xuất bản, ông vào Nhà xuất bản Hội Nhà văn, ở đó, chao ôi
là ân cần, niềm nở ở đó người ta đón tiếp ông như người ông đi xa lâu
ngày mới trở về, hỏi han, dặn dò...chừng độ một tháng sau cuốn sách dưới
đây chào đời...
Hu hu, các cơ quan, các nhà nghiên cứu lịch sử, văn
hóa gạo cội của tỉnh nhà đi đâu cả rồi, để cho ông kỹ sư chăn nuôi tuổi
ngoài thất thập vất vả đến nhường này...Còn nhiều chi tiết ly kỳ lắm để
khi nào nhàn cư mỗ đây biên tiếp hầu bà con....
À quên, sách chắc là sẽ có bán hoặc biếu tại Bản đền, chợ Kỳ Lừa, phường Hoàng Văn Thụ, TP Lạng Sơn.
Bìa cuốn sách
Bìa lót có lời đề tặng của tác giả cho Mỗ
Lời giới thiệu của NXB Hội nhà văn
Thân thế, sự nghiệp của tác giả
Đang viết tiếp...
"Con đi chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm !...". (Lời con trai lão Hạc)
Người theo dõi
Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011
Georges Condominas qua đời.
Những
ai đã học hay quan tâm đến văn hóa dân gian không thể không biết đến
Georges Condominas, cây đại thụ văn hóa dân gian và sử thi, dân tộc
học...về Tây Nguyên đã trút hơi thở cuối cùng ngày 17/7/2011. Những năm
học ở Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian (Nay là Viện nghiên cứu văn hóa) Georges Condominas là cái tên lớn đầy ngưỡng mộ đối với mỗ. Nay ông đã về cói vĩnh hằng, xin thắp một nén nhang tưởng nhớ đến ông!
Cuộc trò chuyện sôi nổi, song cũng nhiều lúc chùng xuống, chúng tôi chia sẻ cùng nhau niềm nhớ và nhất là nỗi lo đau đáu về vùng đất xiết bao ruột thịt với cả hai chúng tôi, đang trải qua những thử thách có lẽ là lớn nhất, nặng nề nhất trong suốt lịch lâu dài của nó. Rừng và con người ở đó đang và rồi sẽ ra sao? “Anh biết đấy”, Condo bảo, tôi từng viết “Chúng tôi ăn rừng…”. Ăn rừng, người Tây Nguyên “ăn rừng”, xin thức ăn cho sự sống của mình từ rừng, cũng như chúng ta nói chúng ta bú sữa mẹ mà lớn lên thành người. Tây Nguyên không còn rừng thì rồi sẽ ra sao? …”.
Chính nỗi ưu tư đeo đẳng và ngày càng thống thiết ấy gắn kết chúng tôi. Mỗi lần ông sang Việt Nam, chúng tôi đều gặp nhau, cùng đi Tây Nguyên, cùng đi miền núi Quảng Nam. Lần ông cũng bảo: “Tôi luôn thèm về đấy. Ở nơi ấy tôi đã học làm người”. Và ở cuộc triển lãm đặc sắc “Chúng tôi ăn rừng – G. Condominas ở Sar Luk” được trưng bày ở Paris, rồi ở Hà Nội tháng 12/2007, giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của ông, có một băng rôn ghi một câu của Condominas, có thể coi là châm ngôn của đời ông, nghe hơi lạ và rất đáng chú ý: “L’ethnographie est un genre de vie”. Có thể dịch: “Dân tộc học là một kiểu sống” hay “Dân tộc học là một lối sống”. Riêng tôi muốn dịch “Dân tộc học là một loại hình sống”. Loại hình, như các loại hình thực vật, động vật … Một loại hình, chứ không phải một nghề.
Năm 1948 anh thanh niên Condominas vừa mới ra trường, sang Đông Dương, lên Tây Nguyên, tìm đến tộc người Mnông Gar ở làng Sar Luk hoang vắng, và ngay từ đầu ý thức sâu sắc “mặc cảm” đó, hiểu rằng anh phải khắc phục được nó, phải thay đổi toàn bộ cuộc đời mình, nhập thân được vào “loại hình” dân tộc học của mình. Hiểu Mnông Gar ư? Anh phải hiểu nó từ bên trong. Sau này anh sẽ nói, giản dị - vậy đó, chân lý thì bao giờ cũng giản dị - chẳng hạn, “để biết một món ăn Mnông Gar có ngon không thì nhất thiết phải là một người Mnông Gar”. Anh phải thành một người Mnông Gar. Condo vào làng Sar Luk, xin làm một căn nhà chen giữa làng, thành một hộ như bao nhiêu hộ của làng.
Đang thiêm thiếp, chợt Condo giật mình thức dậy, hỏi: “Cậu vừa nói gì đấy? Nói lại xem!”. Lơ mơ ngủ nhưng ông vừa nghe được hai tiếng “mau prum”. “Nhắc lại đi!”, ông khẩn khoản. Vì, đã quên mình là người lạ, người Pháp, hết sức thông thạo đến ăn sâu trong máu thịt tiếng Mnông Gar, nhưng đồng thời ông vẫn là nhà dân tộc học, tỉnh táo và sắc sảo, để chỉ cần hai tiếng “mau prum” nghe như trong mơ đã đánh thức ngay nhà dân tộc học trong ông dậy. “Mau prum” có nghĩa là đá Chàm. Và là nhà dân tộc học thành thạo, ông biết người Chàm chưa bao giờ đặt chân lên vùng đất Krông Nô này suốt lịch sử. Nghĩa là người thanh niên kia đã thấy một điều gì đó rất lạ mà anh ta không hiểu được trong ngày đi làm đường hôm nay.
Tiễn đưa Condo của Tây Nguyên
Ăn
rừng, người Tây Nguyên “ăn rừng”, xin thức ăn cho sự sống của mình từ
rừng, cũng như chúng ta nói chúng ta bú sữa mẹ mà lớn lên thành
người. Tây Nguyên không còn rừng thì rồi sẽ ra sao?” - Georges
Condominas.
Yoo Condo thân thiết của người Mnông Gar. |
Georges Condominas đã ra đi trong đêm
thứ bảy 16 rạng sáng chủ nhật 17/7/2011. Thế giới vừa mất một trong
những nhà dân tộc học lớn nhất của mình. Chắc chắn trong những ngày
đến sự kiện này sẽ gây xao động không chỉ ở Pháp, và ở Việt Nam, nơi
nhà bác học này đặc biệt gắn bó. Và tôi chắc ở một nơi sâu tít trong
tận cùng Tây Nguyên, tại cái làng nhỏ có tên là Sar Luk bên bờ con
sông Krong Nô hoang vắng, dưới chân dãy Chư Yang Sin hùng vĩ, một dân
tộc rất nhỏ tên là dân tộc Mnông Gar sẽ làm lễ bỏ mả cho ông, Yoo
Condo thân thiết của họ - Yoo là cách người Mnông Gar gọi người nơi
khác đến mà đã trở nên ruột thịt.
Tôi đã may mắn được là một người bạn
nhỏ của con người vĩ đại ấy, và cách tôi được gặp và quen ông thật lạ,
cũng có thể là tiêu biểu cho một trong những tính cách độc đáo của ông.
Hơn 30 năm trước, một hôm đang ngồi làm việc ở nhà, tôi nghe điện
thoại reo và bên kia đầu dây một người nói với tôi bằng tiếng Pháp:
“Tôi vừa từ Paris sang, một chị bạn của anh bên ấy nhờ mang cho anh mấy
cuốn sách, làm sao trao được cho anh?”. Tôi cám ơn và xin ông cho biết
tôi có thể đến gặp ông ở đâu để nhận sách. Ông trả lời: “Tôi là Geoges
Condominas, hiện ở khách sạn X, anh có thể đến khoảng 2 giờ chiều nay
không?”
Không thể nói hết sửng sốt của tôi,
hóa ra một nhà bác học lớn, mà tôi đã được đọc một số tác phẩm nổi
tiếng, vừa gọi điện cho tôi và chỉ mấy tiếng nữa tôi sẽ được gặp ông!
Mươi phút sau, điện thoại lại reo. Vẫn là Condominas. “Thôi, anh không
cần đến khách sạn đâu. Tôi có một người bạn ở Hà Nội biết nhà anh, tôi
sẽ đến chỗ anh ngay bây giờ, được không?”.
Tả sao hết hồi hộp. Mươi
lăm phút sau một chiếc xe máy đổ xịch trước thềm: nhà dân tộc học lừng
danh thế giới, người thầy của bao thế hệ dân tộc học khắp năm châu, đến
nhà tôi bằng xe ôm! Tôi còn nhớ mãi hình ảnh Condo hôm ấy, cũng sẽ là
hình ảnh quen thuộc những người biết ông hẳn còn mãi ghi nhớ: chiếc áo
vét tông lụng thụng và hơi nhàu, không hề có cà vạt, chiếc mũ phớt hơi
rộng vành màu nâu nhạt. Ông ở chơi với tôi gần suốt buổi, say sưa trò
chuyện về Tây Nguyên, ông hỏi tôi lên Tây Nguyên từ năm nào, cười bảo
“Thế là thua tôi rồi, tôi đến Tây Nguyên trước anh một năm cơ …”.Cuộc trò chuyện sôi nổi, song cũng nhiều lúc chùng xuống, chúng tôi chia sẻ cùng nhau niềm nhớ và nhất là nỗi lo đau đáu về vùng đất xiết bao ruột thịt với cả hai chúng tôi, đang trải qua những thử thách có lẽ là lớn nhất, nặng nề nhất trong suốt lịch lâu dài của nó. Rừng và con người ở đó đang và rồi sẽ ra sao? “Anh biết đấy”, Condo bảo, tôi từng viết “Chúng tôi ăn rừng…”. Ăn rừng, người Tây Nguyên “ăn rừng”, xin thức ăn cho sự sống của mình từ rừng, cũng như chúng ta nói chúng ta bú sữa mẹ mà lớn lên thành người. Tây Nguyên không còn rừng thì rồi sẽ ra sao? …”.
Chính nỗi ưu tư đeo đẳng và ngày càng thống thiết ấy gắn kết chúng tôi. Mỗi lần ông sang Việt Nam, chúng tôi đều gặp nhau, cùng đi Tây Nguyên, cùng đi miền núi Quảng Nam. Lần ông cũng bảo: “Tôi luôn thèm về đấy. Ở nơi ấy tôi đã học làm người”. Và ở cuộc triển lãm đặc sắc “Chúng tôi ăn rừng – G. Condominas ở Sar Luk” được trưng bày ở Paris, rồi ở Hà Nội tháng 12/2007, giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của ông, có một băng rôn ghi một câu của Condominas, có thể coi là châm ngôn của đời ông, nghe hơi lạ và rất đáng chú ý: “L’ethnographie est un genre de vie”. Có thể dịch: “Dân tộc học là một kiểu sống” hay “Dân tộc học là một lối sống”. Riêng tôi muốn dịch “Dân tộc học là một loại hình sống”. Loại hình, như các loại hình thực vật, động vật … Một loại hình, chứ không phải một nghề.
Giáo sư Georges Condominas
sinh năm 1921 tại Hải Phòng, cha người Pháp còn mẹ mang ba dòng máu Bồ
Đào Nha, Hoa và Việt. Từ nhỏ ông đã theo cha sống ở Pháp, Tunisia và
Việt Nam. Ông vừa học luật vừa học hội hoạ ở trường cao đẳng Mỹ thuật
Đông Đương (Hà Nội), sau đó về Paris học để lấy bằng cử nhân văn khoa
(1947) và bằng của trung tâm Đào tạo nghiên cứu dân tộc học (1948). Năm
1970 ông trình luận án tiến sĩ khoa học nhân văn ở đại học Sorbonne
(Paris). Năm 2007, ông được bầu làm thành viên danh dự viện Viễn Đông
Bác cổ (EFEO). Ông đã nhiều lần là giáo sư thỉnh giảng ở các đại học
hàng đầu thế giới. Năm 2006, viện Khoa học xã hội Việt Nam tặng ông huy
chương của viện. Năm 2010, ông nhận giải Việt Nam học của quỹ văn hoá
Phan Châu Trinh.
Hai cuốn sách của ông: Nous avons mangé la forêt (Chúng tôi đã ăn rừng) và L’exotique est quotidien (Cái xa lạ là hằng ngày) được nhà dân tộc học André Leroi-Gourhan xếp vào số “các cuốn sách kinh điển của ngành dân tộc học”. |
Condominas được đào tạo
bởi những con người không chỉ là những nhà nhân học, dân tộc học lớn,
mà còn là những nhân cách lớn, rất đặc biệt, hay đúng hơn nữa, thuộc
một “loại hình” riêng, những Marcel Mauss, Paul Mus, Claude và Paul
Lévy-Strauss, André Leroi-Gourhan, André-George Haudricourt, Pierre
Edouard Mestre, Maurice Leenhardt… cùng với Georges Balandier, Jean
Guiart, Paul Mercier …
Có thể hiểu một cách vắn
tắt “loại hình” ấy như thế này: một nhà khoa học bất kỳ có thể có hai
cuộc đời, cuộc đời của người làm khoa học, và một cuộc đời riêng, không
nhất thiết gắn làm một. Nhà dân tộc học thì không, anh ta chỉ có một,
không thể tách rời, dân tộc học là cuộc đời anh, cuộc đời anh là dân
tộc học, không chừa lại chút gì; anh đồng hóa với đối tượng của mình
đến cùng, cùng một số phận, cùng một số mệnh, cùng một loại hình, anh
không ở bên ngoài mà bên trong nó, anh chính là nó, thành bại, mất còn.
Chúng ta biết dân tộc học,
nói cho đúng, trước hết là một sản phẩm của châu Âu, của chủ nghĩa
thực dân. Nó sinh ra khi chủ nghĩa thực dân châu Âu đi chinh phục và
biết đến các dân tộc “lạc hậu”, tìm hiểu chúng. Vì vậy nhà dân tộc hầu
như bao giờ cũng từ một nền văn hóa được tự coi là cao hơn đến quan
sát, nghiên cứu một nền văn hóa bị coi là thấp hơn, từ bên ngoài nhìn
vào và từ bên trên nhìn xuống…Năm 1948 anh thanh niên Condominas vừa mới ra trường, sang Đông Dương, lên Tây Nguyên, tìm đến tộc người Mnông Gar ở làng Sar Luk hoang vắng, và ngay từ đầu ý thức sâu sắc “mặc cảm” đó, hiểu rằng anh phải khắc phục được nó, phải thay đổi toàn bộ cuộc đời mình, nhập thân được vào “loại hình” dân tộc học của mình. Hiểu Mnông Gar ư? Anh phải hiểu nó từ bên trong. Sau này anh sẽ nói, giản dị - vậy đó, chân lý thì bao giờ cũng giản dị - chẳng hạn, “để biết một món ăn Mnông Gar có ngon không thì nhất thiết phải là một người Mnông Gar”. Anh phải thành một người Mnông Gar. Condo vào làng Sar Luk, xin làm một căn nhà chen giữa làng, thành một hộ như bao nhiêu hộ của làng.
Thời gian ngắn đầu, anh
còn phải nhờ một phiên dịch, nhưng rồi anh nhanh chóng học thạo tiếng,
đến mức đêm nằm mơ toàn bằng tiếng Mnông Gar – nghĩa là anh tư duy
không phải bằng tiếng Pháp nữa mà bằng tiếng Mnông Gar; anh “tư duy
Mnông Gar”. Anh sống cùng số phận của làng, vui mừng, đau khổ, thành
bại, sống chết cùng làng Mnông Gar đến tối đa, để sự hiện diện của một
người ngoài, lại là một da trắng, lại là một nhà dân tộc học nữa, không
làm biến dạng hiện thực như hằng có của làng, làm biến dạng một cách
tất yếu ứng xử của người làng với nhau và với người lạ khi làng có
“khách” lạ...
Tác giả và Georges Condominas. Ảnh: Đoàn Huy Giao |
Song ở đây còn có chỗ rất tế nhị: nhà
dân tộc học hết sức “quên” mình đi, để cho làng cũng “quên” sự hiện
diện của anh đi, nhưng đồng thời anh vẫn phải là nhà dân tộc học, tỉnh
táo và sắc sảo quan sát. Có mâu thuẫn không, và nhà dân tộc học phải
giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào? Có lần tôi đã hỏi Condominas về
điều ấy.
Rất ngạc nhiên là ông cũng… rất ngạc
nhiên. Ông bảo ông không để ý, hay đúng hơn không cảm thấy khó khăn. Có
lẽ, ông nói, vì mình sống thật tình đến cùng với bà con.
Ta biết ít ra một ví dụ về
thành công này của Condominas, trong việc ông tìm ra được bộ đàn đá
tiền sử đầu tiên trên thế giới… Đêm ở làng Sar Luk, như mọi đêm, sau
một ngày sống và lao động cùng bà con, Condo ngồi hút rượu cần và rít
tẩu thuốc với các già làng bên bếp lửa nhà sàn, lơ mơ ngủ, chợt thức
dậy lại hút rượu và rít thuốc, lại lơ mơ ngủ, không hề để ý một thanh
niên ngày hôm ấy được điều đi sửa con đường từ Sar Luk đi Đầm Ròn đang
lầm rầm kể chuyện…Đang thiêm thiếp, chợt Condo giật mình thức dậy, hỏi: “Cậu vừa nói gì đấy? Nói lại xem!”. Lơ mơ ngủ nhưng ông vừa nghe được hai tiếng “mau prum”. “Nhắc lại đi!”, ông khẩn khoản. Vì, đã quên mình là người lạ, người Pháp, hết sức thông thạo đến ăn sâu trong máu thịt tiếng Mnông Gar, nhưng đồng thời ông vẫn là nhà dân tộc học, tỉnh táo và sắc sảo, để chỉ cần hai tiếng “mau prum” nghe như trong mơ đã đánh thức ngay nhà dân tộc học trong ông dậy. “Mau prum” có nghĩa là đá Chàm. Và là nhà dân tộc học thành thạo, ông biết người Chàm chưa bao giờ đặt chân lên vùng đất Krông Nô này suốt lịch sử. Nghĩa là người thanh niên kia đã thấy một điều gì đó rất lạ mà anh ta không hiểu được trong ngày đi làm đường hôm nay.
Anh kể: trong khi lao
động sáng nay, các anh đã phá một ụ đất để nắn lại con đường trước đây
bị uốn cong, và tìm thấy trong ấy mười một phiên đá lạ, rất dài, mà
người Mnông khi gặp bất cứ vật cổ nào mà họ không thể hiểu và họ tin là
bí ẩn, thiêng liêng thì đều coi đó là của người Chàm xưa… Sáng hôm sau
Condo cùng người thanh niên đi đến hiện trường, quan sát kỹ, nhận ra
đấy là những phiến đá đã được đẽo gọt bởi bàn tay con người, một vật
cổ, có thể là tiền sử… Những phiến đá ở làng Dnut Lieng Krak, cách Sar
Luk khoảng 10 km, được Condominas phát hiện năm 1949, gửi về viện Nhân
chủng học Paris, được các chuyên gia nhân học, khảo cổ học, nhạc học
nghiên cứu tỉ mỉ, xác nhận là một bộ đàn đá tiền sử (đúng ra là hai bộ,
thiếu mất một thanh), cực kỳ đặc sắc, là bộ đàn đá tiền sử đầu tiên
tìm được trên thế giới, có niên đại khoảng ba nghìn năm …
Condominas rất ít khi nhắc
lại chiến công khảo cổ học từng làm chấn động thế giới ấy của ông. Ông
chỉ nói: “Dân tộc học là một loại hình sống”, vậy thôi. Thế đấy!
… Từ Sar Luk, Condominas mang về cho
thế giới khoa học (và cả văn học) tác phẩm “Chúng tôi ăn rừng Đá Thần
Gô”, ra mắt ở nhà xuất bản Mercure de France, nơi chỉ chuyên in tác
phẩm văn học của những văn hào lớn như Verlaine và Rimbaud, và cuốn
sách lập tức được nhà nhân học hàng đầu Claude Lévy-Strauss coi là
“đánh dấu sự đăng quang trong nền văn học dân tộc học của một thể loại
hoàn toàn mới, nổi bật vì sự gắn bó với hiện thực bản địa, sâu sắc hơn
tất cả những gì đã từng có trước nay”. Ít lâu sau, cuốn sách thứ hai về
Sar Luk của ông ra đời, cũng hết sức độc đáo, cuốn “L’exotique est
quotidien” (có thể dịch là “Kỳ lạ mỗi ngày”), bút ký tự thuật cảm động
và uyên bác về sự nghiệp hay cuộc đời “dân tộc học là một loại hình
sống” của ông …
Hôm nay chúng ta tiễn đưa về cõi vĩnh
hằng một nhà bác học lớn, một người bạn lớn của Việt Nam, đặc biệt của
các dân tộc Tây Nguyên, người, tôi tin vậy, cho đến giờ phút cuối cùng
vẫn không ngớt nỗi nhớ dằng dặc và nội lo đau đáu về Tây Nguyên của
chúng ta, của ông. Vì Tây Nguyên đối với ông đã trở thành “một loại
hình sống”.
Hãy biết yêu và lo như ông.
19/7/2011
Nguyên Ngọc (Theo SGTT)
Xuân thu nhị kỳ...
Xuân thu nhị kỳ, những đổng lý văn phòng cũ có, mới có, trẻ ranh có, già
cỗi có ở muôn phương lại hội ngộ ở kinh thành ca bài ca muôn thuở
"bưng, bê, kê, đặt..." lại hỏi nhau đã (chuyển) đi đâu chưa? Rồi tự trả
lời, nếu đi thì còn gặp nhau ở đây làm gì, nụ cười trở nên gượng gạo,
méo mó, đôi ba anh cau có. Lại tụ bạ, lại cùng nhau kể chuyện mình,
chuyện đời...
Kỳ này khác hơn những kỳ trước là bắt đầu một đợt khách (hay là chủ) mới...
Một số hình ảnh gặp gỡ nơi kinh thành giữa muôn hồng, ngàn tía (không chú thích, không bình luận)
Kỳ này khác hơn những kỳ trước là bắt đầu một đợt khách (hay là chủ) mới...
Một số hình ảnh gặp gỡ nơi kinh thành giữa muôn hồng, ngàn tía (không chú thích, không bình luận)
Xuân thu nhị kỳ...
Xuân thu nhị kỳ, những đổng lý văn phòng cũ có, mới có, trẻ ranh có, già
cỗi có ở muôn phương lại hội ngộ ở kinh thành ca bài ca muôn thuở
"bưng, bê, kê, đặt..." lại hỏi nhau đã (chuyển) đi đâu chưa? Rồi tự trả
lời, nếu đi thì còn gặp nhau ở đây làm gì, nụ cười trở nên gượng gạo,
méo mó, đôi ba anh cau có. Lại tụ bạ, lại cùng nhau kể chuyện mình,
chuyện đời...
Kỳ này khác hơn những kỳ trước là bắt đầu một đợt khách (hay là chủ) mới...
Một số hình ảnh gặp gỡ nơi kinh thành giữa muôn hồng, ngàn tía (không chú thích, không bình luận)
Kỳ này khác hơn những kỳ trước là bắt đầu một đợt khách (hay là chủ) mới...
Một số hình ảnh gặp gỡ nơi kinh thành giữa muôn hồng, ngàn tía (không chú thích, không bình luận)
Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011
Hoa Lê-ki-ma là hoa cây Trứng gà?
KỶ NIỆM 64 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7/1947 - 27/7/2011
Thắp hương tưởng nhớ các liệt sỹ quê Lạng Sơn yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sỹ Trường Sơn (18/4/2010)
Lịch sử ngày Thương binh liệt sỹ 27/7
- Nhớ hồi kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh liệt sỹ 27/7, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức rộng rãi cho đoàn viên, thanh niên, cán bộ, công chức và nhân dân tham gia cuộc thi tìm hiểu về ngày Thương binh liệt sỹ 27/7. Đề cương cho sẵn, tài liệu tham khảo thì phong phú. Ai cũng sôi nổi tham gia vì lúc ấy các cuộc thi tuy đã có nhiều nhưng chưa nở rộ như sau này. Chi đoàn cử hẳn một "Bộ tham mưu" để làm đề cương riêng quyết ẵm giải. Câu hỏi cuộc thi có đề cập đến một nhạc phẩm của nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn là bài hát "Biết ơn chị Võ Thị Sáu" trong đó có câu mở đầu là "mùa hoa Lê-ki-ma nở". Một đồng nghiệp bây giờ đang công tác ở một cơ quan trung ương có sáng kiến là mở ngoặc chú thích luôn sau câu đó hoa Lê-ki-ma miền Bắc gọi là cây Trứng gà. Cả "Bộ tham mưu" đều nhất trí cao. Chẳng biết có phải chi tiết vô cùng "đắt giá" đó không mà sau đó mưa giải đã ập xuống Chi đoàn BTTH-TV tỉnh. Một giải ba và 3 giải khuyến khích đã thuộc về các đoàn viên Chi đoàn. Thấm thoắt, đến giờ một số đoàn viên khi ấy nay đã và sắp trở thành bố, mẹ đoàn viên rồi. Một kỷ niệm còn nhớ mãi.
Thắp hương tưởng nhớ các liệt sỹ quê Lạng Sơn yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sỹ Trường Sơn (18/4/2010)
Lịch sử ngày Thương binh liệt sỹ 27/7
Cách
mạng tháng tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời
chưa được bao lâu thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Núp
sau quân Anh - Ấn, chúng trắng trợn gây nên những vụ xung đột vũ trang ở
nhiều nơi thuộc Nam Bộ, Trung Bộ. Tiếp đó, khi vào thay thế quân đội
Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ, thực dân Pháp gây ra những vụ bắn phá giết
hại dân ta ở Hải Phòng, Hà Nội….. mở đường cho việc xâm lược cả nước ta.
Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong cuộc chiến đấu này, một số chiến sĩ, đồng bào ta bị thương và hi sinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình yêu thương của mình, góp phần chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh em thương binh, bênh binh một cách tận tình chu đáo.
Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ tử nạn” sau đổi tên “Hội giúp binh sĩ bị thương” được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Hồ Chủ tịch là hội trưởng danh dự của hội.
Ngày 28/5/1946, “hội giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại nhà hát thành phố Hà Nội và Hồ chủ tịch đã đến dự. Ngày 7/11/1946, cũng tại nhà hát thành phố Hà Nội, buổi quyên góp ủng hộ quần áo giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận đã được tổ chức, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”, tại đây Hồ chủ tịch đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sĩ.
Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương, hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh, gia đình liệt sĩ trong thời kỳ đầu của cuốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 6/1947, đại biểu của tổng bộ Việt Minh, Trung Ương hội phụ nữ cứu quốc, Trung Ương đoàn thanh niên cứu quốc, cục Chính Trị Quân Đội quốc gia Việt Nam, nhà thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sĩ và thực hiện chỉ thị của Hồ chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh liệt sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, hội nghị nhất trí đề nghị Trung Ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sĩ – ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý Uống Nước Nhớ Nguồn.
Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong cuộc chiến đấu này, một số chiến sĩ, đồng bào ta bị thương và hi sinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình yêu thương của mình, góp phần chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh em thương binh, bênh binh một cách tận tình chu đáo.
Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ tử nạn” sau đổi tên “Hội giúp binh sĩ bị thương” được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Hồ Chủ tịch là hội trưởng danh dự của hội.
Ngày 28/5/1946, “hội giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại nhà hát thành phố Hà Nội và Hồ chủ tịch đã đến dự. Ngày 7/11/1946, cũng tại nhà hát thành phố Hà Nội, buổi quyên góp ủng hộ quần áo giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận đã được tổ chức, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”, tại đây Hồ chủ tịch đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sĩ.
Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương, hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh, gia đình liệt sĩ trong thời kỳ đầu của cuốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 6/1947, đại biểu của tổng bộ Việt Minh, Trung Ương hội phụ nữ cứu quốc, Trung Ương đoàn thanh niên cứu quốc, cục Chính Trị Quân Đội quốc gia Việt Nam, nhà thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sĩ và thực hiện chỉ thị của Hồ chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh liệt sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, hội nghị nhất trí đề nghị Trung Ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sĩ – ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý Uống Nước Nhớ Nguồn.
Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam gửi Điều lệ cho Hội viên
HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM (Tên đầy đủ là HỘI NHỮNG NGƯỜI SƯU TẦM, NGHIÊN CỨU, PHỔ BIẾN VÀ TRUYỀN DẠY VĂN HÓA VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM, Tên
Tiếng Anh là ASSOCIATION OF VIETNAMESE FOLKLORISTS, viết tắt là AVF)
vừa gửi Điều lệ Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam khóa VI (2010-2015) cho
các Hội viên.
Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) gồm 7 Chương, 29 Điều đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI nhiệm kỳ 2010-2015 của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thông qua ngày 11 tháng 5 năm 2010 tại thành phố Hà Nội và được Bộ Nội vụ phê duyệt tại Quyết định số 1337/QĐ-BNV ngày 22 tháng 11 năm 2010.
Điều lệ Hội
Đại hội Chi hội Lạng Sơn ngày 06/3/2011 (hix, Y cũng được ngồi Đoàn Chủ tịch cơ đấy)
GS-TSKH Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội dự Đại hội Chi hội Lạng Sơn
Trò chuyện lúc giải lao
Y với thầy giáo cũ Tô Ngọc Thanh
Huyền thoại Langbiang - Đà Lạt
Giữa khung trời Đà Lạt (21/4/2006)
Biệt thự cổ Đà Lạt (21/4/2006)
Những con "chiến mã" trên đỉnh Langbiang huyền thoại.
Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) gồm 7 Chương, 29 Điều đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI nhiệm kỳ 2010-2015 của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thông qua ngày 11 tháng 5 năm 2010 tại thành phố Hà Nội và được Bộ Nội vụ phê duyệt tại Quyết định số 1337/QĐ-BNV ngày 22 tháng 11 năm 2010.
Điều lệ Hội
Đại hội Chi hội Lạng Sơn ngày 06/3/2011 (hix, Y cũng được ngồi Đoàn Chủ tịch cơ đấy)
GS-TSKH Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội dự Đại hội Chi hội Lạng Sơn
Trò chuyện lúc giải lao
Y với thầy giáo cũ Tô Ngọc Thanh
Huyền thoại Langbiang - Đà Lạt
Giữa khung trời Đà Lạt (21/4/2006)
Biệt thự cổ Đà Lạt (21/4/2006)
Những con "chiến mã" trên đỉnh Langbiang huyền thoại.
Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2011
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)