Người theo dõi

Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012

Mưa nắng Đồng Nai

Mấy ngày qua y vừa du hý Quảng Ninh về, trời đã giữa thu, biển Bãi Cháy lặng như tờ vi không giông bão, khách du lịch thưa dần, từng đoàn tàu du lịch neo đậu gần bờ thấy ảm đạm. Trời mưa rả rích chả đi đâu chơi được đành đứng ban công khách sạn Hạ Long Dream làm vài kiểu ảnh ngõ hầu chứng minh rằng y có đến đây.


Bãi Chãy vắng vẻ vào mùa thu


Rời Hạ Long về nhà, tình cờ y có được tập ký sự "Mưa nắng Đồng Nai"
do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành của nhà văn Võ Nguyện, người Huế, cư trú Sài Gòn nhưng lại là Hội viên Hội VHNT Đồng Nai!
Chắc bác ta nhớ câu ca dao:
"Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng".

Bác Nguyện thì chắc gắn bố Đồng Nai quá rồi nhưng y cũng có vài lần đến đó, đọc ký của bác mới hiểu thêm về vùng đất địa linh nhân kiệt này.

Tập ký của nhà văn Võ Nguyện trên tủ sách nhà y



Tập ký vừa phải, hành văn dung dị, những điều bác kể y cũng có nghe đâu đó nhưng qua tập ký toát lên lòng yêu Đồng Nai, yêu môi trường của tác giả..y đọc một mạch đến hết rồi thở phào!
Cứ ngỡ là một nhà hoạt động môi trường không của Việt Nam thì cũng của Tổ chức
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP).
Ẩn trong những dòng ký sự là tấm lòng trĩu nặng với môi sinh và nỗi lo cho hậu thế!

Trừ vài bài cuối còn lại là về môi trường với những nỗi niềm đau đáu về cả môi trường sống và môi trường xã hội. Con người ngày càng khó bảo lẫn nhau và lạnh lùng với nhau quá! Nhiều câu hỏi cuối bài của Võ Nguyện đang chờ con người trả lời:
"Con người đang phá nhà của voi hỏi sao voi không trả đũa? (Voi đi đâu?)
"Nhưng con người chỉ cần chạy theo lợi nhuận thì rắn đã chết rồi. Ai độc hơn ai?" (Đôi chuyện về rắn)
"Suối Tôm ở Trị An đầy tôm hùm nay còn đâu?" (Nhộn nhịp thịt rừng)
"Sông ơi! Xin sông đừng chết!" (Sông ơi! đừng chết)
.......
Những câu hỏi, câu cảm thán xoáy vào lòng người có lương tri..
âu cũng cũng là tấm lòng của nhà văn Võ Nguyện mà chúng ta nên trân trọng. Những chuyện ông kể đều là sự thật trần trụi, đau lòng mà y biết sự thật còn hơn thế nữa. Cũng chỉ vì mưu sinh của con người chụp giật sống hôm nay không biết đến ngày mai, không lo gì cho hậu thế. Tập ký là lời cảnh tỉnh với con người và với các nhà quản lý, nếu không nhanh chóng có ý thức ứng xử đúng mực với thiên nhiên thì sẽ sớm lãnh hậu quả khôn lường và thực tế đã lãnh...
Có một điều hơi khó chịu khi đọc tập ký nhưng có lẽ ngoài tầm kiểm soát của nhà văn đó là nhiều lỗi chính tả quá, có lẽ người đọc morat hôm đó tâm tư chuyện gì đó nên lơ đễnh chăng???

Y đi thị sát bằng cano của Công an tỉnh trên sông Đồng Nai

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Bạn đang ở giai đoạn nào?

Hôm ngồi uống bia bên bờ biển Mũi Né, Bình Thuận được ông bạn "Đào lộn hột" tức Điều (hơi xách mé tý, xin lỗi ông bạn quý) kể cho nghe tên các loài cá nước mặn ứng với chu kỳ sinh học của cánh đàn ông ta, cười sặc cả bia, suýt lăn ra bãi cát mà ngẫm thấy đúng quá. Hồi còn học ở Viện nghiên cứu văn hóa có hẳn một môn gọi là "Văn hóa dân gian miền biển" hàng mấy chục tiết do PGS Viện phó Lê Hồng Lý dạy mà tuyệt nhiên không thấy thầy dạy hay kể chi tiết thú vị đó.
Này nhé khi bé thì gọi cá CHIM, lớn chút thì cá CU, chút nữa thì cá BÓP, thành niên thì cá ĐÙ, về già thì cá ĐUỐI, không đủ sức thì cá CHUỒN, cuối đời thì cá LIỆT. Bạn (hay ông xã, bạn giai của bạn) đang ở giai đoạn nào? Xem lại xem có phải cá ĐUỐI hay cá CHUỒN không, mau mau đi tìm loại rượu "hải lục không quân" (gồm tắc kè, cá ngựa, bìm bịp, sao biển...) về mà cải thiện, để cá LIỆT thì cầm chắc giàn lý nhà bạn sắp đổ rồi đó.

Hình ảnh bộ xương CÁ ÔNG VOI LƯNG XÁM (THE SKELETON OF FIN WHALE)
BALAENOPTERA PHYSALUS (LINNAEUS, 1758)
Chiều dài toàn thân 22m, trọng lương cơ thể 65 tấn. Đây là bộ xương cá Ông Voi lớn nhất Việt Nam và cũng là lớn nhất Đông Nam Á)
(Chụp ở Dinh Vạn Thủy Tú, thành phố Phan Thiết)





Đây là Bằng xác nhận kỷ lục (Trong khung kính, dưới ánh điện, máy ảnh thì cũ, người chụp thì kém nên ảnh không rõ, bà con thông cảm)



Ngư dân đang hoàn thiện thuyền thúng để đi biển câu mực, bắt cá, nhưng mà cái bác ngồi ngoài "lộ hàng" quá!(Giá mỗi chiếc thành phẩm khoảng hơn 2 triệu đồng)




Trong ảnh là cầu treo Lê Hồng Phong bắc qua sông Cà Ty ở thành phố Phan Thiết, Bình Thuận, cây cầu rất đẹp nhưng nghe nói người dân cự nự rằng cầu này có "treo" đồng chí Lê Hồng Phong hồi nào đâu, vậy nên nhà chức trách đã phải đặt lại tên cây cầu và gắn biển là "CẦU DÂY VĂNG LÊ HỒNG PHONG"

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2012

Ông Đãng Làng Chiềng

Chẳng biết ông Đãng đến làng Chiềng từ khi nào, nhưng chắc chắn không phải từ ngày các cư dân đồng bằng sông Hồng chạy giặc Cờ Đen đến Làng Chiềng khai hoang lập bản. Nghe nói ông là người Hà Tây, nay đã thuộc kinh thành Thăng Long. Có lẽ là người đến sau nên ông không vào làng mà chọn doi đất nổi lên giữa xứ đồng Tu Luông để "đóng đô" ở đấy, chỗ ấy gần làng Áng nhưng "biên chế" lại ở Làng Chiềng dù xa hơn. Vốn có cái lanh lợi sẵn có của người dân đồng bằng duyên hải, ông vừa làm ruộng vừa kiêm lái trâu. Những năm bao cấp nhà nhà khốn khó ông Đãng vẫn sống sung túc. Thời ông Đãng, phong kiến đã qua mà Chủ nghĩa xã hội còn chưa tới không còn mốt sập gụ tủ chè nhưng nhà ông lúc nào cũng thóc lúa đầy nhà, vịt gà đầy sân và ông luôn rủng rỉnh tiền tiêu từ nghề lái trâu. Thời ấy người ta chỉ lo làm sao vơ cái gì cho đầy bụng, không đến mức chết đói, rét là được không mưu cầu giàu có cao sang gì. Người ta còn gọi ông là ông Quang Đãng hay "Bố ông Giời".
Gọi ông Quang Đãng bởi tên cúng cơm của ông là Quang còn Đãng là gọi theo tên con. Vốn làng Chiềng chỉ gọi tên con nhưng chắc ông hay bông phèng nên người ta gọi cả tên kép là ông "Quang Đãng"
Còn "Bố ông Giời" thì là vì ông hay chửi giời chả kiêng nể gì cả, trời mưa ông cũng chửi Đ.m ông giời, nắng hay gió ông cũng chửi, tóm lại động tý là ông chửi Đ.m giời nên làng Chiềng gọi là bố ông giời vì chỉ có bố ông Giời mới dám chửi giời, rồi ông luôn than vãn câu cửa miệng: Khổ đời rồi!

Đường vào làng Chiềng ngày nay


Y nhớ như in thời còn bé Bố ông Giời đã có chiếc xe đạp PEUGEOT của Pháp quốc màu lá mạ, loại xe dam (Xe dam là xe nữ, gốc từ chữ madam là quý bà, khung chéo không phải như xe nam khung ngang) ông hay dùng để đi chợ phố huyện. Nhà giữa cánh đồng nên mỗi khi ra đường cái quan ông phải dắt xe, tiếng líp kêu giòn tanh tách vui tai, thỉnh thoảng thấy người cấy dưới ruộng ông lại bấm chuông kêu kính coong, kính coong nắng chiều chiếu vào cái xe bóng loáng ánh kim của ông sáng cả cánh đồng Tu Luông. Trời mưa thì ông cắp nách ra tận đường cho đỡ bẩn. Cái xe thời ấy có khi đến tận bạc nghìn chứ chả chơi. Mỗi khi về chợ, trên ghi đông xe PEUGEOT của ông là một miếng thịt lợn xâu lạt treo lủng lẳng quết đất, nhìn mà thèm.
Thời ấy như thế là sung túc lắm lắm, làng hiếm có ai được như thế bởi vợ con ông đông và chăm chỉ căn cơ. Mỗi lần bán trâu ông lại có lời cả trăm bạc. Ông hiền lành và hay nói, hay chửi, chửi ngọt sớt...
Mỗi lần ông đi dắt trâu về dọc đường cái quan thi thoảng gặp cái ô tô trên đường trâu vốn trong rừng thấy lạ lại lồng lên, bọn trẻ thích chí lắm, hỏi xéo ông Đãng:
- Ông ơi sao nó lại chạy thế?
Ông Đãng giả nhời ngọt như mía mà cay độc:
- Khổ đời rồi, Bố nó chết đấy em à, đi đéo đâu mà vội thế (Ý ông nói cái xe ô tô làm con trâu của ông nó lồng) Bọn trẻ con làng lấy thế làm thích thú cười tít!.
Lớn lên, y đi tha phương cầu thực thấm thoắt đã gần ba chục năm, ông Đãng già rồi mất nhưng những câu chuyện về ông Đãng lắm lúc khiến y bật cười một mình.
Hôm tuần trước Y về thấy nhiều thứ trong làng thay đổi, Làng Chiềng nay cũng dần chuyển mình từ làng lên phố. Nhà ông Đãng vẫn giữa đồng Tu Luông. Người làng Chiềng muôn đời nay vẫn thế thôi, không biết có phải???


Nhưng thói quen tắm giếng thì người làng Chiềng vẫn giữ như xưa.