Người theo dõi

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Ngộ nghĩnh trẻ thơ

1. Cu Tơn thế mà đã sắp 6 tuổi
Mỗi khi Tơn hư, mẹ hay mắng Tơn là Nhóc con, hư quá
Tơn đáp trả ngay: Nhóc mẹ
Ở đây Tơn đã có sự lẫn lộn ở từ "con" trong cụm từ nhóc con là một danh từ không phải từ ghép

2. Cu Tơn chuẩn bị thay răng. Một hôm đi Mẫu giáo về khoe "Mẹ ơi răng con lung linh rồi"
Chắc là định nói răng lung lay
Ba ngày sau: Buổi tối đang ăn mỳ tôm, Tơn khóc hu hu mẹ ơi con ra một cái rằng rồi, chắc là sợ quá!  

3. Sáng ra mặt trời chiếu qua cửa sổ cu Tơn không ngủ được nên bảo mẹ
Mẹ ơi, nhốt ông mặt trời lại, con chói mắt không ngủ được

4. Tơn ngủ dậy, thấy một quả quýt to và một quả quýt nhỏ trên bàn bèn reo lên: 
A! hai bố con quả quýt


Xuống tấn!

Thứ Bảy, 22 tháng 12, 2012

"U ơi U lấy vợ hai cho thầy.."

Ngày bé, tôi vẫn nghe bà, mẹ tôi và các bà mẹ ở làng Chiềng thường hát ru con mỗi trưa hè nắng gắt:
"Ầu ơ, ...ơ...ơ
Cái Cò mà mổ cái Trai
U ơi U lấy vợ hai cho thầy..."
Giờ nghe thì lạ tai nhưng bà tôi kể ngày xưa phụ nữ, đàn bà trong làng khổ lắm làm gì được tự do tìm hiểu, kết hôn và lại ly hôn...chóng vánh như các anh các chị bây giờ. Thời ấy cha mẹ đặt đâu, con cái ngồi đấy. Con gái 13, 14 tuổi đầu đã tấp tểnh lấy chồng. 17, 18 mà chưa gì là có nguy cơ ... ê sắc rồi. Có khi các bậc cha mẹ giao ước với nhau từ thuở con cái mới lọt lòng. Phụ nữ không có con và không có con trai là một tội tày đình, có thể người chồng thông cảm nhưng với họ hàng gia tộc thì không thể tha thứ. Ngày ấy trai thiếu gái thừa nên đa thê cũng là lẽ thường cho nên những người phụ nữ không con không còn cách nào khác là phải ngậm đắng, nuốt cay chịu cảnh chồng chung mà không dám hé răng than vãn nửa lời. Kiếp người mà lầm lũi như trâu bò, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho giời; một nắng hai sương mà không có lúc nào được an nhàn hạnh phúc kể cả trong giấc ngủ.
Phụ nữ làng tôi nay cũng đã đổi thay, nhiều chị học hành tử tế, đi thoát ly cũng nhiều, câu hát ru bi ai, sầu muộn xưa không còn, thay vào đó là tiếng ầu ơ cất lên réo rắt sau bờ tre mỗi trưa hè:
"Ầu ơ...ơ...
Con ngoan con ngủ với bà
Mẹ nằm với bố cho nhà đông em..."
Tiếng trẻ nín tắp, chỉ còn tiếng ru thi gan với tiếng ve kêu...

Chiều đông phố huyện (ĐC-VN-TN)

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Khi thầy click chuột...

Khi xưa, lúc học đại học sư phạm y cũng từng rất thích bài hát Bụi phấn với những ca từ không thể đẹp hơn về hình ảnh người thầy: "Khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi..."nhất là nó lại được ngân lên từ các em học trò ngây thơ trong sáng lúc y đi thực tập.
Hai mươi năm sau, thầy ít viết bảng, chữ cũng cẩu thả dần không biết ít viết hay do tuổi tác, hay do ỷ lại vào máy móc (Projector). Mấy cô hành chính thường hỏi trước khi y lên lớp: "Hôm nay anh có dùng máy chiếu không"?
Không dùng thì sợ bọn trẻ bảo mấy ông bà giáo già cổ hủ, không "pờ - rồ", dùng thì cũng tiện nhưng y vẫn thích viết bảng. Thôi thì đành dùng cả hai vậy...
Phấn không bụi nữa nhưng không có bụi phấn thì bụi thời gian cũng đã vương trên tóc y rồi...nhanh thật. Mới đó mà...






Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Giáo sư Đặng Vũ Khúc không còn lên làng Chiềng nữa rồi!

Thế là GS.TSKH Đặng Vũ Khúc không còn lên làng Chiềng giỗ bố tôi vào tháng Tư hằng năm được nữa rồi! Chiều hôm qua, vào 16h25' ngày 21/11/2012 (nhằm ngày 09/10 năm Nhâm Thìn), trái tim của nhà khoa học địa chất hàng đầu nước ta đã ngừng đập tại Bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội (1931-2012).
Gia quyến sẽ tổ chức tang lễ cho Bác tại số 5 Trần Thánh Tông, Hai Bà Trưng Hà Nội vào lúc 11h30' đến 13h00' ngày 23/11 và hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn Vũ hồi 16h00' cùng ngày sau đó đưa di cốt về an táng tại quê nhà, thôn Lê Xá, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội vào sáng ngày 24/11/2012
Bác Khúc, người bác ruột kính yêu của tôi đã trở về với cát bụi!
Sống gửi, thác về. Cháu cầu chúc cho linh hồn của Bác siêu thoát về miền cực lạc!

Bác Khúc ơi!





Tang lễ ngày 23/11/2012





Xem thêm GS Đặng Vũ Khúc ở đây:
http://blog.yahoo.com/_ZTNPDTGCUOV24I5AHSUWDQGHOM/articles/591222/category/Family

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

Câu chuyện bên bờ con sông chảy ngược (Part II) hay là món cháo vịt giả khoai!

Đường vào khu tập thể hồi ấy lầy lội ổ voi bởi các loại xe khách, xe tải, xe "chuồng gà" chở hàng lậu của Trung Quốc ra vào ngày đêm. Cơ quan nằm giữa bãi đất trống huơ tứ bề ấy nên cũng lắm chuyện buồn cười. Thỉnh thoảng lại có anh mất cốp hay gương xe máy. Đó là những tay nhà giàu chứ cái thứ trên răng, dưới "cát - tút" như bọn y thì chả có gì để mất cả. Bọn gánh hàng rong, rau cỏ đi qua cơ quan suốt ngày nào thì quần áo, đánh giầy, rau quả, bẫy chuột, đồ ăn cắp cũng có... Có đến phân nửa thời gian làm việc của bọn công chức rỗi việc bị tốn vào đấy. Nhiều đứa con cán bộ thời ấy thường theo cha mẹ lên cơ quan, được cái việc ít mà lại không "cháy nhà chết người" nên cũng chả sao, chúng cứ lớn lên một cách tự nhiên như củ khoai, củ sắn. Lương thấp nếu không nói là cực thấp (Lương đại học mới ra trường của y lúc đó tròm trèm 10 vạn, mua được khoảng trên trăm gói mì tôm hạng trung) nên các bác lãnh đạo cũng vì thế mà chả mắng mỏ gì, thi thoảng còn đùa vui với lũ trẻ và còn cho chúng kẹo bánh nữa. Những đứa trẻ ấy giờ đây khối đứa đã trở thành  sinh viên của các trường đại học danh tiếng vào loại bậc nhất của Hà Thành như FTU, HUST...HUC
Vui cũng kiểu vui của con nhà nghèo, mỗi khi có sự kiện gì các cô, các chị lại vào bếp nấu nướng rồi liên hoan, cũng nhạc sập xình từ cát-xét Tàu rồi nhảy loạn trong hơi men phấn khích ầm ĩ cả khu đầu cầu như ngày xưa thôn quê có gánh hát về làng, cả các bậc cao nhân đáng kính cũng tham gia rất chi là nhiệt tình, bọn du đãng đi qua cũng nghển cổ ghé nhìn và lấy thế làm lạ lắm. Vào mùa World Cup hay Euro thì vui hết biết, đêm nào mấy bác trong khu tập thể cũng vác Ti vi ra sân (để các bà vợ đỡ cằn nhằn) hò reo cả đêm, đó là những bữa tiệc thể thao thật sự đối với y và gã cử nhân tân khoa thời ấy, bởi hai gã mọt sách không có nổi cái TV để xem dù chỉ là đen trắng. Sáng nào hai thằng cũng phải dậy sớm thập thò ở cửa nhà hàng xóm xem ké TV khi mà chiếu những bộ phim dài tập để đời của truyền hình Tung Của như Tể tướng Lưu gù, Nghiệp chướng...hay những bộ phim của truyền hình Việt Nam thời còn ăn khách như 12A và 4H...


Đêm chung kết Uôn - Cup 94 rồi 98 thể nào cơ quan cũng nấu cháo vịt liên hoan, có năm y và gã cử nhân cùng phòng được giao nhổ lông vịt ở nhà bà Trưởng phòng đáng kính ven sông có 2 cô con gái xinh như mộng chửa có chồng, không biết do bản tính vụng thối vụng nát cố hữu hay do mải liếc hai em mà bọn chúng nhổ tuột hết cả da vịt như bóc củ khoai. Rồi nồi cháo nóng với những cái bụng đói lúc đêm khuya hay vì bóng đá quên đi mọi ưu sầu, phiền muộn, con người ta trở nên dễ tính, độ lượng hơn mà không thấy ai chê bai hay xét nét món thịt vịt không da của hai thằng, he he

Năm ấy, trời làm lụt lội, nước sông KC lên cao mấp mé bờ, cả đêm ấy xóm nghèo thức trắng để...xem nước lên. Cũng chả có gì phải lo lắm vì đồ đạc cũng không có gì nhiều. Chỉ lo cái kho đồ "đồng nát" của cơ quan bị ngập thì lại quy trách nhiệm cho nhau hết hơi.
Khu tập thể cạnh đầu cây cầu sắt nên đêm đêm tiếng xe nghiến mặt cầu rung ầm ầm, inh tai nhức óc, riết rồi cũng thành quen. Thỉnh thoảng lại có người chán sống nhảy cầu tự tử. Cả xóm lại hò nhau ra xem y hệt ở làng quê với thói tò mò cố hữu của người Việt.
Rời chốn nhà quê ra nơi phồn hoa đô thị nhưng lối sống, cách hành xử vẫn đậm đặc chất quê, mà biết đâu như thế lại là giữ gìn bản sắc, hay gì đâu đua đòi lối sống nửa thị thành, nửa nhà quê. Bản chất lưu manh thị thành vẫn chưa thể một đời có thể ngấm ngay vào những con người kẻ quê ấy được.
                                                                      Hết thật.

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012

Hiện vật quý - chai bia BGI cổ niên đại 1875

Hôm rồi dọn nhà mới thấy cái chai bia lăn lóc góc nhà, nhặt lên xem thì thấy là lạ không biết được sản xuất năm nào, có ghi Sài Gòn 1875, Đây là chai bia của hãng B.G.I có biểu tượng con cọp, lô gô, chữ trên thân chai đều in bằng sơn nổi nhưng rất chắc vì không thấy bị bong tróc. Các thông số trên thân chai bằng tiếng Pháp. Các vỏ chai bia hiện nay đều dán nhãn bằng giấy. Chai bằng thủy tinh màu hồng đỏ rất đẹp. Loại bia này hình như mới tái xuất tại Việt Nam mới đây mà hiện nay chỉ thấy dân miền Trung sử dụng.

Mặt có hình vẽ (Ảnh 1) có ghi:


MARQUE  DÉPOSSEE

BIERE DE LUXE

"33"

EXPORT

BRASSERIES  & GLACIERES

, DE  L' INDOCHINE

BGI

Mặt có chữ ghi:

BIÈRE
FABRIQUÉE AVEC DES MALTS
D'ORGES SÉLECTIONNÉES ET DES
HOUBLONS DES CRUS LES PLUS
RENOMMÉS
*
BRASSERIES ET GLACIÈRES
DE L' INDOCHINE
SAIGON
ANCIENS E TS V.LARUE
ETABLIS AU VIET - NAM DEPUIS
1875
Ai quan tâm xin mời liên hệ với chủ nhân (anvpqh@yahoo.com).






Vỏ chai bia 33ml




Thời buổi công nghệ mà cán bộ Bảo tàng vẫn xử lý hiện vật như mẹ đĩ nhà cháu đang tẽ ngô ở nhà quê ý.

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

Ký ức thời gian

Các cụ bảo "trẻ vui nhà, già vui chùa", y chưa đến tuổi vui chùa và y cũng not female nên không đi chùa vì tuổi già nhưng y cũng không còn trẻ nữa. Việc đi chùa của y khá tình cờ và hấp dẫn bởi Chùa Vĩnh Nghiêm có mộc bản mới được UNESCO công nhận là di sản tư liệu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - trong Giấy ghi nhận phát tâm công đức của chùa in như vậy (Anh cán bộ đi cùng thì giới thiệu là di sản ký ức của nhân loại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đọc báo chí cũng thấy nói như thế).
Chùa nằm ở Đức La thôn, Chí Dũng xã, Yên Dũng huyện, Bắc Giang tỉnh. Chùa ẩn khuất  trong những lũy tre làng thanh bình bên cánh đồng lúa 
mênh mang. Đường vào chốn tổ đình Vĩnh Nghiêm với những mộc bản phong phú của chùa khá thuận lợi bên những cánh đồng thẳng cánh cò bay và núi Cô Tiên huyền thoại cách đường cái quan chừng 20 cây - lô - mếch và cách Hà Thành chừng 1,5 giờ đi ô tô, đường đi rất thuận tiện vì đã được bê tông hóa và nhựa hóa hoàn toàn, tận sân chùa.
Vì có liên hệ trước nên đoàn của y được tận mắt và tận tay chiêm ngưỡng và cảm nhận những mộc bản rất tinh túy bằng chữ nho của tiền nhân để lại. Cổng vào chùa bằng đá và gỗ rất hoành tráng chắc là mới xây nhưng chùa thì thật là cổ kính với kiến trúc cổ và nhiều chạm khắc tinh xảo. Nhiều pho tượng gỗ cổ đậm màu thời gian không sơn son thếp vàng càng tôn vinh giá trị ngôi chùa, nền đất mát lạnh, bài trí đúng phật pháp.


Theo Đại đức trụ trì tại chùa cho biết Chùa Vĩnh Nghiêm hiện còn lưu giữ hơn 3.000 mộc bản kinh Phật, được khắc từ thế kỷ 16-19 để phục vụ đào tạo tăng ni phật tử thiền phái Trúc Lâm và cả nước. Mỗi bản có hai mặt, khắc chữ Hán Nôm âm bản (khắc ngược) gồm nhiều nội dung: y học, văn học, bùa chú, luật giới nhà Phật... Bản khắc lớn nhất có chiều dài hơn 1m, rộng 40-50cm với những chạm khắc hoa văn độc đáo.


Chùa Vĩnh Nghiêm được mệnh danh là “Đại danh lam cổ tự”, một trung tâm Phật giáo lớn nhất của thời Trần, một chốn tổ quan trọng của 3 vị Trúc Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang) từng trụ trì và mở trường thuyết pháp.

Chuẩn bị khởi hành...



Vào Chùa
...



Sân chùa Vĩnh Nghiêm


Nghe Đại đức trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm giới thiệu về lịch sử ngôi chùa và mộc bản



Mộc bản được cất cẩn thận trong chùa, sau các ban thờ, khóa trong tủ chắc chắn

Thành kính...




Ra về nhớ nơi ấy Yên Dũng, Bắc Giang có chốn Tổ đình Vĩnh Nghiêm

Hiện vật mộc bản được phục chế để trưng bày phục vụ khách vãng cảnh chùa


Tượng Phật nghìn mắt nghìn tay




Giấy ghi nhận phát tâm công đức nhà chùa




Dấu xưa...


Trăm năm bia đá...chưa mòn
...

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

Câu chuyện bên bờ con sông chảy ngược

Đặt cái title cho tò mò câu view vậy thôi chứ thực ra y muốn kể về cuộc sống thời bao cấp trong khu tập thể bên bờ sông KC mà y từng ở khi mới bước vào đời.
Đó là vào khoảng những năm đầu tiên của thập kỷ cuối của thế kỷ trước mới ra trường, y xách ba lô lộn bắt xe ngược lên xin việc ở một tỉnh miền núi.
Cơ quan bố trí cho hai ông cử non ở một gian ở khu tập thể bên bờ con sông một thời huynh đệ tương tàn chưa xa, khiến nhà báo Ta- Ca - Nô của xứ Phù Tang phải bỏ mạng.
Gọi là khu tập thể nhưng vô cùng nhếch nhác gần nhà tù cũ của bọn thực dân đế quốc sài lang, lúc bấy giờ trở thành bãi tập kết xe chở rác của Công ty vệ sinh môi trường. Đó là một dãy nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói xi măng dài như cái nhà dài của đồng bào Ê-đê, M'nông ở Tây Nguyên dễ có đến hai chục gian. Mỗi gian là một hộ cán bộ của mấy cơ quan ngành cờ đèn kèn hoa và vài cơ quan khác sinh sống, phòng chỉ có một cửa ra vào duy nhất không có cửa sổ, không trần, không khép kín, khi đóng cửa thì tối om như hũ nút. Mùa hè thì nóng chảy mỡ, mùa đông thì gió bắc lùa thấu xương, hễ có mưa bão thì chuẩn bị chậu mà hứng nước. Khổ là vậy nhưng không ai có ý định sửa sang lại vì nghèo và cũng vì cha chung không ai khóc. Y và một ông cử vốn rất giỏi cái chữ thánh hiền quê một tỉnh cửa ngõ thủ đô nay đã đi vào dĩ vãng được phân vào một gian tập thể, thôi thế cũng tốt chán vì không phải đi thuê.
Cả xóm, mỗi nhà có một gian bếp con con phía trước (trừ gian y ở không có, đun bếp dầu luôn trong phòng) được lợp bằng đủ thứ vật liệu chắp và từ giấy dầu, tấm lợp và tất cả những gì có thể, tường trát đất xiêu vẹo thấp lè tè, ẩm thấp, hôi hám không bằng cái chuồng vịt của nông thôn mới bây giờ. Ấy vậy mà chứa trong đó là những con người có trình độ, nhiệt huyết ngùn ngụt với nghề. Con người sống trong xóm nghèo cũng rất chân tình, thân ái. Việc gì cũng có nhau vui, buồn, "khi chén rượu, khi cuộc chè"...hay mỗi khi World cup, vợ giận đều sẻ chia rất chi là thân thiết.
Y và gã cử nhân tân khoa được phân vào một phòng thay nhau nấu cơm hàng ngày, thức ăn chỉ hai món xào luộc quen thuộc, thi thoảng lắm mới dám sáng kiến món mới vì chẳng biết nấu và cũng vì cái ví chưa hết tháng đã lép kẹp. Nhưng mà cũng hay hung hăng uống rượu như Phết, có hôm 3 thằng mà ngả hết gần 4 chai rượu loại rượu săm ô tô nồng nặc mùi cồn đựng trong chai bia tàu, say đến 3 ngày chưa hoàn hồn đến nỗi nôn ra nửa chậu tuyền nước, he he
Lúc mới lên công tác,  nhiều đêm mưa gió hai thằng trằn trọc không ngủ được thấy hàng xóm có nhiều tiếng động lạ như có kẻ trộm rình mò, rồi thì lại thấy tiếng thở hồng hộc, tiếng rên la ư ử. Thôi chết, chắc các bác hàng xóm lại đau ốm sốt cao rồi đây, lại lo cho cái thân mình đất khách quê người, gạo châu củi quế mà lương thì eo hẹp gặp cảnh ốm đau không người thân bên cạnh thì biết làm thế nào, thế là lại lo cả đêm. Cũng may, một lúc sau thì các nhà hàng xóm lại ngáy pho pho, chắc là họ có sẵn thuốc cảm dự phòng. Sau này mấy thằng mới lớn có kinh nghiệm mới biết là họ chẳng ốm đau gì sất mà thậm chí là đang rất khỏe, he he!
Gian nhà ấy vậy mà cũng nuôi nấng giấc mộng đèn sách của hai chàng thành sự thực; gian phòng ấy còn là "giảng đường" của y dạy lũ học trò cuối cấp 3. Trên chục đứa ngồi chen chúc, đứa ngồi ghế, kẻ ngồi trên giường, bàn học thì tận dụng các loại. Bảng bằng tấm pa - no sơn đen gắn lên tường, cái chạn bát kiêm luôn bàn giáo viên của y. Giờ học từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối cũng là giờ hàng xóm nấu cơm, mắng con..râm ran!
Xóm nghèo khi ấy cũng có một doanh nhân (quốc doanh) trong ngành tạm coi thành đạt, lúc mới ra đời cái điện thoại nối dài còn gọi là "máy mẹ, máy con" to bằng cục gạch lúc nào cũng như vật bất ly thân của bác ta, kể cả đi xuống bếp nó réo líu lo cả ngày thấy rất là ngưỡng mộ.
Hồi ấy nhiều cán bộ ngoài việc nhà nước còn làm thêm bên kinh doanh vận tải mà dân địa phương quen gọi là "Cẩu pỉnh". Chiều chiều từng bầy Min-xcơ đổ về xóm rầm rập, vui tai, từng đống tiền lẻ được đổ ra đếm và vuốt mép xếp lại, đầu tư cho tương lai.
Cả khu tập thể có một bể nước công cộng đầu xóm. Mọi sinh hoạt diễn ra ở đó như cái giếng làng ở quê. Có hôm, anh em thằng Chẫu chuộc, thằng Gạo ra tắm truồng, cô Phụng trong xóm tuổi trăng rằm ra rửa rau, y phải sốt ruột chờ cái vòi chảy ri rỉ như ve đái nên mới cao giọng mắng mấy thằng:
- Ê,  thằng Chẫu, thằng Gạo! Chúng bay về nhà mà tắm hay ít ra cũng phải mặc cái quần đùi vào chứ, mày có thấy chị Phụng tắm ở bể như thế bao giờ không?. Cô Phụng đỏ mặt lảng đi, hai thằng bé chừng 9,10 tuổi cũng xấu hổ bỏ về thế là y chiếm trọn cái vòi công cộng tha hồ tắm gội.
Lại có hai cha con nhà nọ giữa trưa ngồi xổm cắt tóc cho con ngoài sân tập thể, bố cứ loay hoay cắt cho con, còn ông con trạc 6, 7 tuổi trùm áo mưa cứ thản nhiên lấy que chọc ngoáy "thằng em" của ông bố như một trò chơi thú vị, nhìn cảnh ấy, đố ai nhịn được cười!

Nhà vệ sinh công cộng cách xa khu tập thể hơn trăm mét gồm bốn gian, đó là thứ nhà xí thời bao cấp rất bẩn không tự hoại, không dội nước nên rất hôi thối, trời nồm và nắng lại càng hôi tệ mà sáng ra chờ nhau cũng hết hơi. Giấy vệ sinh là giấy báo cũ tận dụng của cơ quan, tiếng vò báo sột soạt, tiếng hất nước râm ran buổi sáng, đôi anh kỹ tính còn đốt lửa cho đỡ ám khí. Ấy vậy mà dãy nhà vệ sinh lại có khóa và rất nhiều khóa  mới tài vì khu ấy ô hợp đầy dân buôn bán ở trọ vãng lai. Bởi mỗi nhà một khóa không chung nhau nên cái chùm khóa có khi đến 5, 6 cái. Tuy nhiên không biết do vô tình hay cố ý mà có anh đi xong khóa không đúng quy trình mà lại khóa tắt nên có vài cái vẫn móc ở chùm nhưng dù có mở được khóa nhà mình nhưng vẫn không vào được vì nó không theo móc xích nguyên tắc cái nọ nối với cái kia sao cho cái nào cũng có thể mở được nên rất mót mà không được đi đành nhăn mặt chửi đổng rồi quay về tìm "thủ phạm". Có đứa quái đản cứ rình buổi tối ra đái vào chùm khóa, thứ khóa Trung Quốc hàng địa phương bằng sắt gặp nước đái mặn két lại, vài hôm thì kẹt không tài nào mở được.
Chỗ tập thể ấy gần sông nên bọn này hay ra đó tắm, chỉ mùa thu và mùa đông thôi vì mùa hè nước lúc nào cũng đục ngầu. Có lần bọn y xuống bãi cạn
(not Scarborough!) tắm cùng với một văn sỹ nơi thượng nguồn sông Thương tên Đấu, hắn nhỏ người loắt choắt nhưng rất tinh ranh, hoạt ngôn có lẽ vì thế nên có biệt danh là monkey, hồi ấy còn thịnh hành mốt tất xù của tàu, trời rét hắn ta biện liền hai đôi hiên ngang cùng bọn y xuống bãi cạn đốt lửa rồi cởi quần áo ào xuống tắm. Vốn không chịu được rét hắn lên bờ trước sấp ngửa thay quần áo. Không biết đãng trí hay rét quá mà một chân hắn đi liền 3 cái tất nên chân kia chỉ còn một cái, thế là hắn dáo dác đi tìm quanh quẩn rồi lại nhìn theo dòng nước hay là nó trôi mất, rồi lại nghi ngờ hay đứa nào chơi xỏ giấu đi của hắn. Mãi sau y mới bảo hắn kiểm tra xem chân kia mấy tất thì ra đúng là có ba cái, cả bọn cứ cười ngặt nghẽo. Thấm thoắt đã hơn chục năm cái xóm nghèo ấy bị giải tán không thương tiếc để xây trung tâm thương mại, mỗi người chạy mỗi ngả, giờ đây có người đã trở thành thiên cổ, những đứa trẻ bọn y còn bế ẵm ngày ấy nhiều đứa giờ đã lấy vợ lấy chồng rồi sinh con đẻ cái.
Chếch phía cầu là xóm trọ và xưởng sửa chữa ô tô, rồi thì ổ làm nước mắm giả quanh năm bốc mùi...
Mười lăm năm trôi đi, xóm nghèo ngày xưa nay chửa thấy trung tâm thương mại hiện đại đâu, vẫn chỉ là bãi đất hoang cho chó ỉa, cỏ mọc...tuy là có hàng rào bằng tole che xung quanh...

                                                                       (Còn nữa)